Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Đương sự là người có quyển lợi, nghĩa vụ trong vụ việc dân sự tham gia tố tụng với mục đích là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trước khi mở phiên Tòa xét xử vụ việc, Tòa án phải gửi thông báo đến các đương sự. Vậy, trong trường hợp những người này vắng mặt trong phiên Tòa sẽ xử lý bằng cách gửi giấy triệu tập. Sau đây là nội dung về Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về sự có mặt của đương sự, người uỷ quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi Tòa án triệu tập lần thứ hai.

Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

1. Đương sự trong vụ án dân sự

Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì đương sự là người có quyển lợi, nghĩa vụ trong vụ việc dân sự tham gia tố tụng với mục đích là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trong một số trường hợp tuy họ không có quyển, lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự nhưng lại tham gia tố tụng để bạo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người khác. Họ có thể là cá nhân, đơn vị hoặc tổ chức (tổ chức có tư cách pháp.nhân và tổ chức không có tư cách pháp nhân). Hoạt động tố tụng của họ có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố tụng, họ là một thành phần chủ yếu của vụ việc dân sự, nếu không có đương sự thì không có vụ việc dân sự tại Toà án. Khi tham gia vào quá trình tố’ tụng dân sự, đương sự có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình.

Các đương sự trong vụ việc dân sự gồm có: nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ việc dân sự; người yêu cầu.

– Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khỏi kiện, người được cá nhân, đơn vị, tổ chức khác do Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định khởi kiện để yêu cầụ Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.

– Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, đơn vị,, tổ chức khác khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng, quyển và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.

– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong Vụ việc dân sự là ngưòi tuy không khỏi kiện, không phải là người yêu cầu, không bị kiện, nhưng khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ dân sự nên họ có thể tự mình để nghị hoặc đương sự khấc để nghị đưa họ vào tham gia tố tụng: hoặc do Toà án chủ động đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

– Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra các yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu trong việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Tuy nhiên, yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Toà án công nhận được không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của mình hoặc của cá nhân, đơn vị, tổ chức khác; yêu cầu Toà án công nhậh cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

2. Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Điều 227. Sự có mặt của đương sự, người uỷ quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người uỷ quyền của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau:

a) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo hướng dẫn của pháp luật;

b) Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;

c) Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo hướng dẫn của pháp luật;

d) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo hướng dẫn của pháp luật;

đ) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

3. Bình luận Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Có quan điểm cho rằng, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà có đương sự, hoặc người uỷ quyền của họ, ngưồi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có người vắng mặt mà không có đơn để nghị xét xử vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.

Khi triệu tập hợp lệ lần thớ hai mà đương sự vắng mặt (phiên tòa ỏ lần triệu tập trước họ có mặt) thì cũng phải hoãn phiên tòa. Có giải thích như vậy mới bảo đảm

sự bình đẳng giữa các đương sự, mới giải thích được tại sao phiên tòa lần đầu có đương sự vắng mặt là hoãn (trừ trường hợp họ xin xét xử vắng mặt), còn phiên tòa lần sau đương sự này mói vắng mặt lần đầu thì phải hoãn phiên tòa chứ không thể xét xử vắng mặt họ. Hơn nữa, luật quy định triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, triệu tập hợp lệ lần thứ hai… chứ không quy định phiên tòa lần thứ nhất triệu tập hợp lệ… vắng thì hoãn, phiên tòa lần thứ hai triệu tập hợp lệ… vắng thì được xét xử vắng mặt. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tô tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định tổng hợp ba điều (Điều 199, 200, 201) vào hai điều còn cách thức thể hỉện trong quy định cơ bản vẫn như cũ. Do đó, việc giải thích đương sự đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt lần thứ hai mối xét xử vắng mặt họ để bảo đảm quyền vắng mặt một lần và quyền có mặt của đương sự tại phiên tòa, có như vậy mổi là công bằng giữa các đương sự.

Có ý kiến đề nghị quy định rõ trong trường hợp bị đơn vắng mặt không cử người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ; trong trường hợp vụ án có nhiều bị đơn nếu một bị đơn vắng mặt nhưng không cử người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn đó.

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 chỉ hoãn phiên tòa khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt. Khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà một trong những người tham gia tố tụng vẫn vắng mặt không do sự kiện bất khả kháng thì tùy từng trường hợp cụ thể, Tòa án sẽ tiến hành xét xử vắng mặt họ hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện hoặc yêu cầu độc lập của người vắng mặt. Quy định như trên là vừa bảo đảm quyền tố tụng của các bên đương sự, đồng thời hạn chế việc các đương sự lạm dụng quyền được vắng mặt để cố tình kéo dài thời gian xét xử vụ án, gây khó khăn cho các đương sự khác và Tòa án.

Có thể các quy định của Điều 199 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành sau khi đã sửa đổi, bổ sung vẫn còn gây ra cách hiểu khác nhau, nhưng các đơn vị chức năng như Tòa án, Viện kiểm sát… phải hướng dẫn trên cơ sở ý đồ của nhà làm luật. Nội dung các báo cáo của úy ban tư pháp, ủy ban thường vụ Quốc hội không khuyến khích việc phải hoãn xử nhiều lần.

Vì vậy có thể hiểu là: Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất đương sự hoặc người uỷ quyền của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà có người thuộc đối tượng nói trên vắng mặt, họ không có đơn xin xét xử vắng mặt thì không cần phân biệt việc vắng mặt đó có lý do chính đáng được không có lý do chính đáng đều phải hoãn phiên tòa. Khi hoãn phiên tòa, Tòa án phải thông báo cho đương sự, ngưòi uỷ quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết việc hoãn phiên tòa; đối với đương sự vắng mặt thì phải gửi văn bản thông báo việc hoãn phiên tòa cho họ biết. Tòa án chỉ xử vắng mặt họ khi họ có đơn xin xét xử vắng mặt.

Khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai cho đương sự, người uỷ quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà có người vắng mặt với lý do có sự kiện bất khả kháng thì Tòa án phải hoãn phiên tòa. Nếu sự vắng mặt đó không phải vì lý do bất khả kháng thì tùy từng trường hợp cụ thể mà xử lý như sau:

– Nếu đối tượng vắng mặt là nguyên đơn, người uỷ quyền theo pháp luật của nguyên đơn mà không có người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khỏi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đốỉ với yêu cầu khởi kiện của ngưòi đó, trừ trường hợp người đó có đơn xin xét xử vắng mặt.

– Nếu bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì Tòa án có quyền xét xử vắng mặt họ.

– Nếu bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì Tòa án xét xử vắng mặt họ và khi xét xử không xem xét yêu cầu phản tố của họ trong vụ án. Yêu cầu phản tố của bị đơn sẽ bị Tòa án đình chỉ giải quyết, trừ trường hợp bị đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có yêu cầu phản tố có quyền khởi kiện lại đô’i vổi yêu cầu phản tố đó, nếu còn thời hiệu khởi kiện.

– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người uỷ quyền tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó. Nếu họ có đơn xin xét xử vắng mặt thì Tòa án không đình chỉ giải quyết yêu cầu độc lập mà sẽ tiến hành xét xử vắng mặt họ.

– Nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án nhân dân vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

Đối với trường hợp nguyên đơn, người có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, và không có sự kiện bất khả kháng mà vắng mặt nên đã bị Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với đơn khỏi kiện, đơn yêu cầu độc lập, thì sau này nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn có quyển khỏi kiện lại, Tòa án phải thụ lý giải quyết theo thủ tục chung. Sau khi thụ lý, nếu thấy thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án căn cứ vào điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đình chỉ giải quyết vụ án, nếu thời hiệu khỏi kiện vẫn còn thì tùy theo tài liệu, chứng cứ mà các bên xuất trình, Tòa án thu thập được để quyết định.

Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành có quy định về sự kiện bất khả kháng, cần hiểu sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trưốc được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com