Một số thách thức và triển vọng phát triển quyền con người

Mục tiêu nhất cửa hàng và xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là không ngừng nỗ lực để người dân được thụ hưởng trọn vẹn nhất các quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Quan điểm, tư tưởng đúng đắn, tiến bộ và hệ thống pháp luật về quyền con người của Việt Nam ngày càng hoàn thiện. Người dân đã và đang được thụ hưởng quyền con người trên mọi lĩnh vực theo tinh thần các công ước quốc tế, phù hợp với thực tiễn của đất nước. Tuy nhiên, một số thế lực thù địch vẫn cố tình tìm cách phủ nhận, đưa ra những nhận xét, đánh giá sai lệch, bịa đặt, xuyên tạc về việc thực hiện quyền con người tại Việt Nam. Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ gửi tới một số thông tin liên quan đến vấn đề thách thức và triển vọng phát triển quyền con người. 

Một số thách thức và triển vọng phát triển quyền con người

1. Quyền con người là gì ? 

Quyền con người (Human rights, Droits de L’Homme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

Quyền con người không những được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal right). Theo đó:

Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

2. Đặc điểm của quyền con người. 

Quyền con người có một số đặc điểm sau:

  • Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ quyền con người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;
  • Tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, truyền thống văn hoá, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội;
  • Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người. Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con người gắn liền với nhà nước và pháp luật – là những sự kiện mang tính giai cấp sâu sắc. Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyển và nội dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người tj nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ theo thủ tục tố tụng hình sự… Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là quyển của cá nhân. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyển dân sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (quyền sở hữu, quyền công tác, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hoá…).

Quyền con người được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.

Ở nước ta, quyền con người được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ tuật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, các luật về bầu cử, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… Những nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người bao gồm:

  • Nguyên tắc dân tộc tự quyết – nguyên tắc nền tảng, vì một dân tộc không có quyền tự quyết thì không thể nói đến quyền con người của từng cá nhân thành viên của dân tộc đó;
  • Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 quy định “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội…,
  • Nguyên tắc bình đẳng giới – nguyên tác đã được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội..;
  • Nguyên tắc cấm hồi tố trong luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 4999, theo đó sẽ không áp dụng một điều luật hay quy định về một tội danh mới, hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới, hoặc hạn chế phạm vi áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

3. Thách thức của việc phát triển quyền con người nói chung. 

Quyền con người bị vi phạm

Trong khi quyền con người hiện đã trở thành ngôn ngữ và những tiêu chuẩn chung của nhân loại thì tại nhiều nơi trên thế giới, các quyền cơ bản của con người vẫn tiếp tục bị vi phạm. Trên phạm vi quốc tế, kể từ khi Thỏa ước Henxinki được ký kết vào năm 1975 tại Phần Lan giữa 35 quốc gia bao gồm Mỹ, Canađa, Liên Xô và hầu hết các nước châu Âu (cả xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) thì quyền con người đã được chính thức thừa nhận như là những tiêu chuẩn chung của nhân loại. Thỏa ước này nêu ra 10 nguyên tắc cụ thể, trong đó có tôn trọng quyền con người và các tự do cơ bản, điều này thể hiện quyền con người là giá trị chung có thể vượt trên những khác biệt về chính trị, xã hội. Cũng từ thời kỳ này, các quyền tập thể đãđược thảo luận một cách phổ biến trên các diễn đàn quốc tế.

Từ thập niên 1990, tại Liên hợp quốc, quyền con người đã trở thành chủ đề chính trong các hoạt động của tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới này. Các cơ quan chuyên trách về quyền con người của Liên hợp quốc đã và đang được cải tổ đáng kể về tổ chức, phương thức hoạt động nhằm thực thi tốt hơn mục tiêu đã được nêu ra trong Hiến chương là khuyến khích, thúc đẩy sự tôn trọng các quyền con người và tự do cơ bản của tất cả mọi người. Những thay đổi này mang lại nhiều hy vọng cho mọi người ở khắp nơi trên thế giới. Tại nhiều khu vực, quyền con người đã thành một nội dung trong chính sách và hoạt động chung của các nước trong khu vực.

Trong mỗi quốc gia, quyền con người ngày càng được đưa quan tâm và lồng ghép vào các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mối quan hệ nhà nước với công dân tại nhiều quốc gia đã thay đổi đáng kể theo hướng hài hòa và tốt đẹp hơn kể khi có các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người được truyền bá. Tuy vậy, những nguy cơ với quyền con người như chiến tranh, khủng bố, chạy đua vũ trang, nghèo đói, bệnh dịch, HIV/AIDS…vẫn còn tồn tại dai dẳng và nghiêm trọng ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Trong hai thập niên vừa qua, nhân loại tiếp tục chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh, xung đột vũ trang trong đó có những cuộc thảm sát đẫm máu như ở Bôxnia (1992-1995), Ruanđa (1994), Côxôvô (1998-1999), Cônggô (Zaire) (1996- 2003). Một số cuộc xung đột vũ trang hiện vẫn đang diễn ra tại Dafur (Xuđăng), Áfganixtan, Irắc, Trung Đông, Xomali… Trong những cuộc chiến đó, một số quyền cơ bản nhất như quyền sống, quyền an toàn về thân thể,v.v.. bị tước bỏ một cách phổ biến; nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em, người già,v.v.. và nhiều nhóm dễ bị tổn thương khác bị chà đạp một cách thô bạo. Trên phạm vi toàn cầu, nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em vẫn chưa có xu hướng giảm, trong khi tệ phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn còn phổ biến ở nhiều nước…Trong bối cảnh đó, phản ứng quốc tế nhìn chung là còn rất xa với sự mong đợi; việc xử lý những kẻ có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền con người còn quá chậm chạp…

Quyền con người có những quan niệm khác nhau từ mỗi quốc gia

Trong khi quyền con người hiện đã trở thành ngôn ngữ chung của nhân loại và là chủ đề chính trong các chương trình nghị sự quốc tế thì vẫn còn những khác biệt nhất định trong quan điểm về quyền con người giữa các quốc gia, khu vực và cộng đồng. Sự khác biệt trong nhận thức về quyền con người giữa các chính phủ và trong giới học thuật là một điều tất yếu, tuy nhiên hiện nay, trọng tâm các cuộc tranh luận về vấn đề này đã có những thay đổi về nội dung và hình thức. Nếu như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cuộc tranh luận về quyền con người chủ yếu diễn ra giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa và mang màu sắc ý thức hệ, xoay quanh mối quan hệ giữa hai nhóm quyền (nhóm quyền chính trị – dân sự với nhóm quyền kinh tế – xã hội – văn hoá), thì ngày nay, cuộc tranh luận chủ yếu diễn ra giữa các quốc gia phương Bắc (hay phương Tây) với các quốc gia phương Nam (các nước đang phát triển), và chủ yếu xoay quanh mối quan hệ giữa tính phổ biến của quyền con người với các đặc thù về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa (thuyết tương đối về văn hóa). Sau sự kiện khủng bố 11-9-2001 tại New York, cuộc chiến chống khủng bố do Hoa Kỳ phát động tại nhiều quốc gia tiếp tục khoét sâu thêm mâu thuẫn vốn đã trầm trọng giữa phương Tây với thế giới Hồi giáo, sự tồn tại và hoạt động của lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS đang gây nhức nhối cho Mỹ và nhiều quốc gia châu Âu, châu Phi, Trung đông. Những mâu thuẫn này là trở ngại lớn cho việc tìm ra sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong một loạt vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng của quyền con người như mối quan hệ giữa bảo đảm an ninh quốc gia và quốc tế với việc bảo vệ quyền con người, quyền tài phán toàn cầu và can thiệp nhân đạo…

Trong bối cảnh kể trên, vấn đề quyền con người trở thành chủ đề ngày càng quan trọng trong các mối quan hệ song phương và đa phương. Quyền con người được coi là một trong những nội dung cốt yếu trong chính sách ngoại giao của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước phương Tây. Đến nay, không chỉ Mỹ mà cả Liên minh châu Âu (EU) đã đưa quyền con người vào chính sách đối ngoại và phát triển “Chính sách ngoại giao nhân quyền”. Cùng với quá trình đó, những nỗ lực đối thoại nhằm tăng cường sự hiểu biết và làm giảm thiểu những khác biệt về quan điểm giữa các nước trong vấn đề quyền con người ngày càng được quan tâm. Các cuộc đối thoại song phương về quyền con người giữa các quốc gia ngày càng được tổ chức nhiều hơn. Liên minh châu Âu (EU) hiện tiến hành đối thoại hàng năm về quyền con người với hơn hai mươi quốc gia (trong đó có Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Việt Nam…).

Bên cạnh đó  khi tiếng nói của các tổ chức phi chính phủ ngày càng có trọng lượng trên các diễn đàn về quyền con người thì vẫn chưa có sự giám sát thích đáng việc tuân thủ các trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty/tập đoàn đa quốc gia. Các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và các doanh nghiệp, bao gồm các công ty đa quốc gia (MNCs), xuyên quốc gia (TNCs) đang tác động đến quyền con người theo những chiều hướng khác nhau. Trong khi các NGOs (cả quốc gia và quốc tế) đã nổi lên như là một lực lượng có tiếng nói thuyết phục với các tổ chức liên chính phủ quốc tế và các chính phủ trong các vấn đề về quyền con người thì vấn đề trách

Bên cạnh những đóng góp tích cực, vì chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp đã gây ra nhiều vấn đề như bóc lột sức lao động, sử dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, điều kiện lao động tồi tệ, gây tổn hại cho sức khỏe người tiêu dùng, gây ô nhiễm môi trường…

Ở nhiều quốc gia, xu hướng tư nhân hóa khiến nhiều loại dịch vụ công được chuyển sang thực hiện bởi các doanh nghiệp tư nhân càng đặt ra nhiều thách thức hơn với việc kiểm soát sự tuân thủ trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Trên đây là một vài điểm nổi lên đáng lưu ý trong sự phát triển của quyền con người trong thế giới ngày nay. Câu hỏi “tương lai của quyền con người sẽ thế nào?” có thể có nhiều câu trả lời khác nhau90; tuy nhiên, có một điều chắc chắn là nó phụ thuộc vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế và các chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế, trong đó bao gồm các tổ chức quốc tế, các chính phủ và từng cá nhân trong cộng đồng nhân loại trong việc bảo vệ và thúc đẩy các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người cho tất cả mọi người.

5. Thách thức của việc phát triển quyền con người ở Việt Nam. 

Trước tiên, một trong những thách thức lớn nhất hiện nay đó là nước ta mặc dù vậy vẫn là một nước nghèo, thu nhập trung bình. Như C.Mác đã nói, kinh tế là yếu tố quyết định, kinh tế không phát triển thì bảo vệ bảo đảm Quyền con người thực sự gặp khó khăn, nhất là quyền kinh tế, xã hội. Nhiều vùng của chúng ta còn khó khăn lắm, đường xá, bệnh viện, trường học còn chật chội, xuống cấp…

Thứ hai, nhận thức chung đã thay đổi nhưng tư duy của một bộ phận cán bộ đảng viên, lãnh đạo các cấp vẫn quá chính trị hóa quyền con người, xem đây là vấn đề nhạy cảm, nói đến Quyền con người lại thiên về hướng là chúng ta phải đấu tranh chống cái gì đó, và nhân quyền như một khái niệm của phương Tây, trong khi lại xem nhẹ việc bảo vệ, ít quan tâm thực chất đến vấn đề nhân quyền, không xem đó như vấn đề thiết thân như đời sống hàng ngày.

Nhưng chỉ đơn giản như vấn đề hàng giả, thực phẩm không an toàn, thuốc giả… cũng là vi phạm quyền của người tiêu dùng, cũng là vấn đề thuộc về nhân quyền đó. Chúng ta phải nhìn vấn đề nhân quyền trong cái nhìn đời thường như vậy chứ đừng chính trị hóa.

Thứ ba, tác động đa chiều của thông tin đại chúng cũng vừa là thời cơ vừa là thách thức. Thông tin không đúng sự thật, theo chiều hướng không chính xác, ví dụ các lực lượng phản động sử dụng các mạng xã hội “có ít xít ra nhiều”, bóp méo sự thật, không đúng sự thật.

Thứ tư, các lĩnh vực đô thị hóa, công nghiệp hóa bộc lộ yếu kém trong quản lý. Tiếp cận giáo dục, nước sạch, chăm sóc sức khỏe ở các đô thị không an toàn ảnh hưởng trực tiếp đến người dân. Nhiều khu dân cư quy hoạch chật chội, có chỗ tính trung bình 8 người/ 1 m2, giáo dục thì có những lớp tiểu học lên đến 60 – 70 em một lớp trong khi đúng tiêu chuẩn chỉ khoảng 30 em.

Thách thức nữa là các thế lực phản động thù địch tiếp tục sử dụng chiêu bài dân chủ nhân quyền, tự do, tôn giáo, dân tộc, bình đẳng để gây sức ép, phá hoại, kích động bạo lực. Lực lượng này rất lớn, mà dù chúng ta có đạt được những bước tiến thành tựu đến đâu họ cũng không bao giờ chịu thừa nhận.

6. Triển vọng phát triển quyền con người. 

Việt Nam tham gia trọn vẹn các công ước quốc tế cơ bản, cần thiết nhất về quyền con người.

Việt Nam có những đóng góp tích cực trong việc thành lập Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền, Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em, thông qua tuyên bố Nhân quyền ASEAN, là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 – 2016). Đặc biệt, ngày 7-6-2019, tại trụ sở Liên hợp quốc, Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ 2020 – 2021) với số phiếu ủng hộ cao kỷ lục 192/193 phiếu. Mới đây, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong tháng 1 và tháng 4 – 2021 với nhiều dấu ấn, đóng góp. Những thành tựu đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; thể hiện uy tín, vị thế quốc tế ngày càng tăng của Việt Nam, bất chấp những luận điệu phủ nhận, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch.

Hiến pháp năm 2013 gồm 11 chương, 120 điều, trong đó riêng Chương II có 36 điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều đáng lưu ý, các nội dung liên quan đến quyền con người không chỉ được quy định trong Chương II mà còn được đưa vào nhiều chương khác của Hiến pháp nhằm tạo cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người được thụ hưởng, thực hiện và bảo vệ quyền con người của mình. Khi quy định quyền con người, quyền công dân, các điều của Hiến pháp xác định rõ “mọi người có quyền ”, “công dân có quyền”, để khẳng định tính pháp lý của các quyền được Hiến pháp thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ.Đại hội Đảng VI chưa nói đến từ “Quyền con người” nhưng khẳng định rõ tôn trọng, bảo vệ quyền công dân. Khái niệm về Quyền con người lần đầu tiên được đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991, nhưng khi ấy mới chỉ nói Nhà nước định ra các đạo luật để quy định “Quyền công dân, quyền con người. Quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”. Từ quy định đó chúng ta có Điều 50 của Hiến pháp 1992.

Bắt đầu từ Đại hội Đảng IX, chúng ta đưa vào vấn đề tôn trọng, bảo vệ Quyền con người, tôn trọng, thực hiện các điều ước quốc tế về Quyền con người.

Đặc biệt, Đại hội Đảng XI đã thông qua 4 điểm trong Cương lĩnh thể hiện một hệ thống quan điểm toàn diện của Đảng lấy con người làm trung tâm, tôn trọng bảo vệ quyền con người, chủ động đối thoại với các nước trên lĩnh vực về quyền con người.

Về các nghị quyết, chỉ thị của Ban Bí thư. Năm 1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12/7/1992 về Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta. Năm 2010 chúng ta có Chỉ thị số 44-CT/TW của Ban Bí thư về công tác nhân quyền trong tình hình mới (ngày 20/7). Và đầu năm nay, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII ban hành Thông báo Kết luận tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW.

Thuận lợi tiếp theo là chưa bao giờ Việt Nam lại có một vị thế trên trường quốc tế như bây giờ. Còn nhớ vào những năm 90 của thế kỷ trước, vấn đề quyền con người ở Việt Nam chúng ta gặp vô vàn khó khăn. Năm 1993, tại Hội nghị thế giới về nhân quyền, các lực lượng phản động, thù địch liệt kê chúng ta vào các nước vi phạm nhân quyền, thậm chí còn dùng từ ngữ nghiêm trọng. Ngay đến những năm 2000 cũng còn rất khó khăn.

Nhưng giờ chúng ta đã là thành viên của Hội đồng nhân quyền nhiệm kỳ 2014 – 2016. Bây giờ chúng tôi trao đổi với các học giả Mỹ về quyền con người có thể thấy họ thay đổi quan điểm rất nhiều về chúng ta.. Nhìn nhận, đánh giá chung của các nước trong khu vực và trên thế giới về Quyền con người của Việt Nam thay đổi hẳn so với trước. 

Nhận thức của các cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chẳng hạn, trước kia Quyền con người chưa được đưa vào giảng dạy trong lớp Cao cấp lý luận, hoặc rất ít. Nhưng từ năm học 2017 – 2018, Lý luận và pháp luật về quyền con người đã được đưa vào giảng dạy với số lượng 50 tiết.

Nhận thức của người dân hiện cũng đã được nâng cao rất nhiều. Thông qua giáo dục, truyền thông, các kênh thông tin đại chúng, người dân nhận thức cao hơn về những vấn đề như công khai minh bạch trong hoạt động nhà nước, xây dựng chính phủ liêm chính, trách nhiệm giải trình, sự tham gia của người dân…

Điều kiện kinh tế của chúng ta phát triển hơn hẳn so với trước tạo điều kiện thuận lợi để thực thi việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người.

Trên đây là nội dung nội dung trình bày của Luật LVN Group về “Một số thách thức và triển vọng phát triển quyền con người”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý bạn đọc có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian cân nhắc nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com