Nguyên nhân vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam

Thực tế cho thấy vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu khả quan: khoảng cách bất bình đẳng giới trong lao động, việc làm, thu nhập không ngừng được rút ngắn; số phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội tăng lên đáng kể. Nguyên nhân của vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam là gì? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu thông qua nội dung trình bày dưới đây !.

Nguyên nhân vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam

1. Bình đẳng giới là gì?

Là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Bình đẳng giới là bình đẳng về pháp luật, về cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm bình đẳng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội.

Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về quyền bình đẳng trên lĩnh vực bình đẳng giới như: Luật hôn nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình…mà trọng tâm là Luật bình đẳng giới và thông qua các công ước quốc tế như công ước về xoá bỏ mọi cách thức phân biệt đối xử với phụ nữ, công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em… nhờ đó mà phụ nữ và trẻ em đều được bảo vệ.

Bạo lực gia đình (BLGĐ) hiện nay đã trở thành vấn nạn, nó xảy ra ở tất cả các nhóm xã hội cơ bản, vượt qua ranh giới về khu vực, văn hóa, thu nhập, mức sống, tuổi tác, địa vị,… gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ, trẻ em. Đây không chỉ là vấn đề riêng của quốc gia nào, dân tộc nào mà nó là của toàn nhân loại. Ở một nước đang phát triển như Việt Nam vấn nạn này ngày càng trở lên phổ biến, có xu hướng gia tăng.

2. Như thế nào là bao lực gia đình?

Theo quy định của Luật phòng chống BLGĐ năm 2007: “ BLGĐ là hành vi cố ý của thành viên GĐ gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong GĐ”.

Có các hành vi BLGĐ sau đây:

2.1. Bạo lực về thể xác

Hành hạ, ngược đãi, đánh đập. Hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng. Căn cứ ngoài các hành vi như: Tát, đấm, đá, xô đẩy,… thì việc bắt người bị bạo lực phải ăn đói, mặc rách, ốm đau không được chữa trị,… cũng là biểu hiện của vấn nạn này.

2.2. Bạo lực về tinh thần

Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng. Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ GĐ: giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.

Căn cứ bao gồm các hành vi như:

– Quát tháo, lăng mạ, sỉ nhục, đe dọa, chửi mắng.

– Cấm đoán các mối quan hệ với bạn bè, GĐ và xã hội.

– Quyết định mọi việc trong GĐ.

– Bóc thư riêng.

– Lục soát người, theo dõi và cho người theo dõi vợ/chồng.

– Lôi kéo con cái và người thân chống lại vợ/ chồng.

– Thường xuyên đe dọa bỏ nhà đi…

2.3. Bạo lực về tình dục

Cưỡng ép quan hệ tình dục. Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

Bao gồm các hành vi như:

– Đòi và cưỡng bức giao hợp khi người vợ không muốn, hành hạ bằng cách không quan hệ tình dục.

– Chê bai hoặc miệt thì về khả năng tình dục của vợ, chồng.

– Bắt kết hôn với người mà mình không có tình cảm…

2.4. Bạo lực về tài chính

Chiếm đoạt, huỷ hoại, cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong GĐ hoặc tài sản chung của các thành viên GĐ. Cưỡng ép thành viên GĐ lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ. Kiểm soát thu nhập của thành viên GĐ nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính. Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên GĐ ra khỏi chỗ ở.

THỰC TRẠNG CỦA NẠN BLGĐ

Theo báo cáo quốc gia về BLGĐ đối với phụ nữ tại Việt Nam, do Tổng cục thống kê tiến hành năm 2010, trong số 5000 phụ nữ được phỏng vấn thì:

– 32% phụ nữ đã từng kết hôn phải hứng chịu bạo lực thể xác trong đời.

– 10% phụ nữ đã từng kết hôn trải nghiệm bạo lực tình dục trong đời.

– 54% phụ nữ đã từng kết hôn hứng chịu bạo lực tinh thần trong đời.

– 5% phụ nữ bị đánh đập trong khi mang thai từ chính người chồng của mình.

Theo số liệu báo cáo của các địa phương, từ năm 2012 đến năm 2016, cả nước xảy ra trên 127.000 vụ BLGĐ. Trong đó, nam giới chiếm 83,6% đối tượng gây bạo lực.

3. Nguyên nhân gốc rễ của BLGĐ là bất bình đẳng giới

3.1. Nguyên nhân về tư tưởng

Tư tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ”, khiến nam giới trở nên gia trưởng, cho phép mình được bạo hành với phụ nữ.

Sự nhìn nhận, đấu tranh của người phụ nữ trước bạo hành GĐ còn hạn chế, cam chịu; họ mang tư tưởng: “xấu chàng hổ ai”, họ sợ: “vạch áo cho người xem lưng”, hay sợ hàng xóm, bạn bè chê cười,…

Trẻ em còn chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ chính GĐ mình về những quan niệm, hành vi bạo lực của người cha và sự cam chịu của người mẹ.

Xã hội chưa nhận thức rõ và chưa tích cực lên án nạn bạo hành đối với phụ nữ. Cộng đồng coi BLGĐ là chuyện riêng của mỗi nhà, “Đèn nhà ai nhà nấy rạng” nên ít có sự can thiệp kịp thời, chỉ những lúc vụ việc đã đang gây hậu quả nghiêm trọng.

3.2. Nguyên nhân về văn hóa

Quan niệm GĐ là do nam giới kiểm soát.

Trình độ học vấn thấp, chênh lệch giữa vợ và chồng.

Nghĩ rằng việc chấp nhận bị bạo hành sẽ có thể giải quyết xung đột.

3.3. Yếu tố kinh tế

Nữ giới thường phụ thuộc nam giới về lĩnh vực kinh tế.

Năng lực nghề nghiệp, đặc biệt là tình trạng chênh lệch về nghề nghiệp giữa vợ và chồng, sự ưu ái đối với nam giới của các nhà tuyển dụng.

Nạn thất nghiệp, vô công rồi nghề của chồng cùng với thói gia trưởng dễ dẫn đến “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” mỗi khi “chán đời”.

Mặt khác còn do tác động của các chất kích thích, của men bia, rượu, ma túy, của thói trăng hoa,…

3.4. Yếu tố luật pháp

Luật pháp liên quan đến BLGĐ còn chưa rõ ràng, mới mang tính cách thức, việc thi hành pháp luật chưa nghiêm minh.

– Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BLGĐ còn chưa đạt hiệu quả cao.

– Sự hiểu biết về pháp luật của cộng đồng còn hạn chế.

Vì vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến bạo lực trong GĐ đối với song nguyên nhân sâu xa chính là do yếu tố nhận thức. BLGĐ chính là một biểu hiện của sự bất bình đẳng giới, là sản phẩm của chế độ gia trưởng.

Nhằm thu hút sự quan tâm, đề cao vai trò, trách nhiệm, tính chủ động tham gia hành động của các cá nhân, gia đình, cộng đồng, đơn vị, tổ chức trong việc phòng, chống bạo lực và xâm hại đối với phụ nữ và trẻ em. Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm 2020 được diễn ra từ ngày 15-11 đến ngày 15-12 với chủ đề “Chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em”. Mục tiêu là đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới, vận động toàn xã hội chủ động, tích cực hành động nhằm thực hiện hiệu quả hơn các chính sách, chương trình về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới. Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ, tự phòng ngừa bạo lực, xâm hại cho phụ nữ và trẻ em, cho cha, mẹ, các thành viên trong gia đình, người làm công tác bình đẳng giới và bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Giảm thiểu tình trạng bạo lực, xâm hại đối với phụ nữ và trẻ em; đẩy mạnh công tác phòng, ngừa, phát hiện và ngăn chặn, xử lý kịp thời các vụ việc bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em.

Vì vậy, trong nội dung trình bày này, LVN Group đã gửi tới tới quý bạn đọc những thông tin cần thiết liên quan đến Nguyên nhân vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam. Nếu còn bất kỳ câu hỏi nào liên quan đến nội dung nội dung trình bày hoặc các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ ngay với LVN Group để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời !!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com