Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra và để thể chế hoá Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Vậy Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 là gì? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu qua nội dung trình bày dưới đây!

Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013

1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở chính trị – pháp lý cần thiết trong việc thực hiện công cuộc đổi mới. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.1 Đất nước ta đã thoát khỏi phạm vi những nước nghèo và bước vào ngưỡng cửa của những nước có thu nhập trung bình. Từ một nước thiếu lương thực trước thời kì đổi mới, đến nay nước ta đã vươn lên đứng trong nhóm các nước hàng đầu trên thế giới về xuất khẩu gạo, xuất khẩu cà phê, hạt tiêu. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) tính theo giá thực tiễn đạt 101,6 tỉ USD, so với nhiều nước trên thế giới còn khá thấp, tuy nhiên đã tăng gấp 3,26 lần so với năm 2000. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD; năm 2015 dự kiến đạt 2.000 USD, phấn đấu đến năm 2020 bình quân thu nhập đầu người đạt 3.000 USD; Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) xác định là chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo định hướng chủ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo đó, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 của Đảng đã đề ra 5 quan điểm phát triển là:

1) Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.

2) Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam chủ xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, vãn minh.

3) Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.

4) Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng chủ xã hội chủ nghĩa. 5) Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã tiếp tục khẳng định các vấn đề cần thiết cần phải nghiên cứu, hoàn thiện sau đây:

– Dân chủ chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.

– Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người.

– Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

– Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các đơn vị trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

– Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã chỉ ra những định hướng cơ bản trong đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước:

+ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội thực sự là đơn vị đại biểu cao nhất của nhân dân, đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách; có cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri. Cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội. Đổi mới, nâng cao chất lượng các kì họp của Quốc hội và chất lượng công tác xây dựng pháp luật, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề cần thiết của đất nước;

+ Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thong nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các bộ, đơn vị ngang bộ;

+ Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường; nghiên cứu về tổ chức chính quyền đô thị, hải đảo. Thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với thanh tra, kiểm tra, giám sát của trung ương;

+ Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống đơn vị tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức toà án theo thẩm quyền xét xử; mở rộng thẩm quyền xét xử đối với các khiếu kiện hành chính. Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống toà án, đảm bảo các điều kiện để thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng của các đơn vị điều ưa, các tổ chức bổ trợ tư pháp. Tăng cường cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

Triển khai thực hiện quan điểm đổi mới của Đảng, tại kì họp thứ nhất, Quốc hội khoá XIII diễn ra vào tháng 8/2011 đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thành lập Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Ngay sau khi được thành lập, Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng Dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến. Tại kì họp thứ 4, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 38/2012/QH13 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 02/01/2013, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố để lấy ý kiến nhân dân. Hoạt động này đã được các cấp, các ngành triển khai sâu rộng, nghiêm túc, thu hút được sự tham gia tích cực, tâm huyết của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, thực sự là đợt sinh hoạt chính trị – pháp lý dân chủ, sâu rộng trong cả hệ thống chính trị.1 Với sự tham gia tích cực của các tầng lóp nhân dân, đã có hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, với hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được trình Quốc hội xem xét, thảo luận tại 3 kì họp của Quốc hội (kì 4, kì 5, kì 6), 3 lần trình Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI (Hội nghị trung ương V, VII, VIII) và rất nhiều lần xin ý kiến của Bộ Chính trị và các đơn vị, tổ chức, các nhà chính trị, nhà khoa học có uy tín. Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kì họp thứ 6. Ngày 28/11/2013, sau nhiều ngày thảo luận, thống nhất ý kiến, trong không khí trang nghiêm và thể hiện sự đồng thuận cao, với đa số tuyệt đối đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (486/498, chiếm 97,59%) Quốc hội khoá XIII, kì họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây là sự kiện chính trị – pháp lý đặc biệt cần thiết đánh dấu cột mốc mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam.

2. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992

2.1 Về cấu trúc của Hiến pháp

Cấu trúc của Hiến pháp năm 2013 gọn nhẹ hơn Hiến pháp năm 1992. Nếu Hiến pháp năm 1992 có 12 chương, 147 điều thì Hiến pháp năm 2013 đã rút gọn được 1 chương và 27 điều, chỉ còn 11 chương và 120 điều. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 khái quát về lịch sử Việt Nam và mục tiêu của bản Hiến pháp mới được quy định ngắn gọn, khúc chiết hơn so với Hiến pháp năm 1992. Vị trí các chương trong Hiến pháp cũng hợp lý hơn so với Hiến pháp năm 1992. Chượng V Hiến pháp năm 1992 được gọi là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” nay được chuyển về vị trí Chương II và được đổi tên thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Việc quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở Chương II thể hiện sự coi trọng quyền con người, quyền công dân của Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển và đổi mới toàn diện của đất nước. Chương “Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân” được chuyển từ vị trí Chương X về Chương VIII trước Chương “Chính quyền địa phương”. Sự điều chỉnh này trong cấu trúc Hiến pháp là họp lý theo tư duy logic chính quyền trung ương quy định trước, chính quyền địa phương quy định sau.

Ngoài việc ghép Chương XI vào Chương I, Chương II và Chương in vào Chương in, Hiến pháp mới còn có thêm một chương mới đó là Chương X: “Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước”. So với các Hiến pháp trước đây, đây là chương hoàn toàn mới. Chương này là kết quả của việc tiếp nhận tư duy lập hiến mới về các thiết chế hiến định độc lập trong hiến pháp nước ngoài.

2.2 Về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước

Chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện những điểm mới sau đây:

– Tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã xác định:

“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các đơn vị nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 bên cạnh quy định về phân công, phối hợp đã bổ sung việc kiểm soát quyền lực giữa các đơn vị nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự bổ sung này là cần thiết để khắc phục những yếu kém trong kiểm soát quyền lực nhà nước của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).

– Về các cách thức thực hiện quyền lực nhân dân, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định:

“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ uỷ quyền thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các đơn vị khác của Nhà nước”.

So với Hiến pháp năm 1992 quy định này của Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ rất rõ ràng của tư duy lập hiến Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 chỉ mới quy định các cách thức dân chủ uỷ quyền, còn Hiến pháp năm 2013 đã quy định trọn vẹn hai cách thức dân chủ trực tiếp và dân chủ uỷ quyền.

– Về địa vị pháp lý của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc tiếp tục xác định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung khoản 2 quy định:

“Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giảm sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”.

Bên cạnh việc quy định “các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định bổ sung “đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Các quy định mới trên đây là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Những quy định này xác định nghĩa vụ của các tổ chức của Đảng và các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình. Các quy định này là cơ sở pháp lý để nhân dân giám sát các tổ chức của Đảng và các đảng viên hoạt động theo đúng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền chủ xã hội chủ nghĩa.

– Trong Chương “Chế độ chính trị” còn có quy định bổ sung mới về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đó là “phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đổi ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quổc”. Vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bổ sung cần thiết trong Hiến pháp năm 2013. Chế độ chính trị nhất nguyên của các nước chủ xã hội chủ nghĩa có ưu thế là sự thống nhất chính trị cao, sự ổn định của đường lối và quyết sách chính trị, tuy nhiên cũng có hạn chế là thiếu sự phân tích phản biện đúng mức nên đôi khi các quyết sách chưa được nhìn nhận, xem xét trên nhiều bình diện khác nhau một cách khách quan và đày đủ. Việc bổ sung quy định trên đây về vai trò của Mặt trận là hoàn toàn phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá hiện nay ở Việt Nam.

– Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiếp nhận những hạt nhân họp lý của học thuyết phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước khi xác lập vị trí, tính chất của Quốc hội, Chính phủ và các đơn vị toà án một cách rõ ràng. Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ Quốc hội là đơn vị thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ là đơn vị thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), toà án thực hiện quyền tư pháp (Điều 102).

– Về chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn quyền hạn của Chủ tịch nước khi xác định Chủ tịch nước quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam thay cho quy định quyết định phong hàm, cấp “sĩ quan cấp cao” trong các lực lượng vũ trang nhân dân như quy định trong Hiến pháp năm 1992. Trên thực tiễn, theo Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước chỉ quyết định phong sĩ quan cấp thượng tướng và đại tướng, còn thẩm quyền quyết định phong sĩ quan cấp thiếu tướng và trung tướng thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.

– Một điểm mới khác cần phải kể đến trong việc tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 là tổ chức chính quyền địa phương. Trong Hiến pháp năm 1992, Chương IX có tên gọi là Hội đồng nhân dân và UBND còn trong Hiến pháp năm 2013 Chương IX có tên gọi là: “Chính quyền địa phương”. Việc khẳng định trong Hiến pháp chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân là cần thiết. Do Hiến pháp năm 1992 không xác định rõ chính quyền địa phương bao gồm những đơn vị nào nên ở một số địa phương quan niệm tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân ở địa phương cũng là chính quyền địa phương nên đã can thiệp cản trở tính độc lập của Toà án trong xét xử.

– Một điểm mới khác cũng cần lưu ý là ngoải ba cấp chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn, Hiến pháp mới còn quy định thêm đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Mặt khác, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hoá chính quyền địa phương, khoản 2 Điều 111 quy định:

“Cấp chính quyền địa phương gồm cỏ Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dần được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định. ”

– Về tổ chức thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 còn có điểm mới là đã quy định về hai đơn vị hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Ở nước ngoài, ngoài hai đơn vị nói trên các đơn vị hiến định độc lập còn có toà án hiến pháp, ủy ban phòng, chống tham nhũng, ủy ban thông tin quốc gia, ủy ban nhân quyền. Các đơn vị hiến định độc lập do được Hiến pháp quy định nên thể hiện tính độc lập cao trong tổ chức và hoạt động của mình, nhờ đó mà các thiết chê này có thể hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao và không phụ thuộc vào các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước được kiểm soát chặt chẽ.

Trên đây là Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 mà LVN Group muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng nội dung trình bày sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com