Căn cứ, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo hướng dẫn của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Mời bạn cân nhắc nội dung trình bày: Những điểm mới về quyền con người trong Hiến pháp 2013 để biết thêm chi tiết.
Những điểm mới về quyền con người trong Hiến pháp 2013
1. Về nguyên tắc bầu cử
2. Về quyền bầu cử của công dân
Tại Khoản 1 Điều 17 của Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Điều 27 của Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND”. Ngoài các quy định về độ tuổi là cần thiết bảo đảm độ chín chắn trong sự lựa chọn của cử tri, pháp luật nước ta không quy định điều kiện nào khác.
3. Về bầu HĐND và UBND
Hiến pháp 2013 đã quy định rõ hơn, cụ thể hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ uỷ quyền thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các đơn vị khác của Nhà nước (Điều 6). Về mặt bầu cử, cho dù được tiến hành dưới cách thức dân chủ trực tiếp hay dân chủ uỷ quyền thông qua đại biểu của mình thì quyền bầu cử, nhất là quyền bầu ra bộ máy nhà nước là một trong những quyền cần thiết nhất của mỗi công dân có tuổi từ mười tám trở lên, vì nó là yếu tố góp phần quyết định có được không quyền lực nhà nước của nhân dân. Tại Khoản 1, Điều 123 Hiến pháp 2013 quy định: “HĐND là đơn vị quyền lực nhà nước ở địa phương, uỷ quyền cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và đơn vị nhà nước cấp trên”. Vì vậy, theo hướng dẫn này, HĐND ở địa phương nào thì do nhân dân địa phương ấy trực tiếp bầu. Nhưng trong điều kiện nhân dân không thể trực tiếp thì ít nhất cũng phải thông qua các đại biểu và đơn vị đại biểu của mình để bầu ra UBND ở các cấp theo đơn vị hành chính lãnh thổ, điều đó là khoa học và cần thiết cho một bộ máy chính quyền của nhân dân. Về điểm này, Khoản 1 Điều 114 của Hiến pháp 2013 quy định rõ: “UBND ở cấp chính quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu là đơn vị chấp hành của HĐND, đơn vị hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và đơn vị hành chính nhà nước cấp trên”.
Hiến định quyền của nhân dân trong việc trực tiếp hoặc thông qua đơn vị đại biểu của mình để bầu ra bộ máy chính quyền ở địa phương là vấn đề có ý nghĩa rất cần thiết, vì nó phản ánh tính nhân dân của Nhà nước ta. Do đó, Điều 29 Hiến pháp 2013 quy định “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Với quy định này, công dân thực hiện dân chủ thông qua trưng cầu dân ý cùng với bầu cử và các cách thức dân chủ trực tiếp khác.
4. Về Hội đồng bầu cử quốc gia
5. Vấn đề hạn chế quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013
Với Hiến pháp năm 2013, đây là lần đầu tiên vấn đề hạn chế quyền được hiến định thành nguyên tắc. Căn cứ, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo hướng dẫn của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 15 của Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác“. Những quy định này được đánh giá là một điểm sáng của Hiến pháp năm 2013. Theo đó, từ nay không được ai tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nhưng phải được luật quy định.
Có thể nhận thấy, Hiến pháp năm 2013 đã xác lập một nguyên tắc chung về hạn chế quyền. Việc hạn chế việc thực hiện quyền chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của các quyền con người, quyền công dân. Nó bảo đảm sự cân bằng giữa các lợi ích trong mối quan hệ Nhà nước – Con người, Công dân, Cá nhân; bảo đảm sự minh bạch và lành mạnh của các mối quan hệ này. Nhà nước với tư cách là tổ chức quyền lực công có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Xét ở những khía cạnh cơ bản, quy định ở khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã tương thích với quy định của pháp luật quốc tế và các bản hiến pháp tiến bộ trên thế giới về nguyên tắc hạn chế quyền. Quy định này nhằm bảo đảm rằng việc hạn chế quyền chỉ được đặt ra khi có lý do khách quan, hợp pháp và hợp lý, trên cơ sở có sự nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận của chủ thể có thẩm quyền. Vì vậy, quy định về nguyên tắc hạn chế quyền đã góp phần bổ sung cho hệ thống cơ chế bảo vệ quyền con người tại Việt Nam.
Với quy định về nguyên tắc hạn chế quyền trong Hiến pháp năm 2013, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá và làm rõ như sau:
(1) Quan niệm về hạn chế quyền của Hiến pháp năm 2013 rộng hơn so với quan niệm của thế giới. Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì bất cứ quyền nào cũng có thể bị hạn chế trong những trường hợp cụ thể. Theo pháp luật nhân quyền quốc tế (ví dụ Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 – ICCPR và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 – ICESCR là hai Công ước mà Việt Nam đã tham gia), có những quyền con người không thể bị hạn chế thực hiện vì bất cứ lý do gì, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả trong những trường cần thiết như quy định của Hiến pháp năm 2013. Chính vì vậy, việc thi hành khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 cần xem xét tới quy định tại khoản 1 Điều 5 ICCPR năm 1966[1].
(2) Việc quy định các lý do để hạn chế quyền là đúng đắn. Tuy vậy, theo pháp luật nhân quyền quốc tế thì một số quyền cần phải được hạn chế trong mọi thời gian mà không cần xuất hiện các trường hợp cần thiết vì lý do an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội… Chẳng hạn, quyền tự do hội họp luôn kèm theo điều kiện “hòa bình” (xem Điều 21 ICCPR năm 1966), quyền tự do lập hội có thể bị hạn chế đối với những người công tác trong lực lượng vũ trang và cảnh sát (xem khoản 2 Điều 22 ICCPR năm 1966). Bên cạnh đó, có thể thấy lý do/mục đích về “quốc phòng” không xuất hiện trong cả Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền – UDHR năm 1948 hay ICCPR năm 1966, ICESCR năm 1966.
(3) Cho đến nay, quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 vẫn chưa được giải thích cụ thể. Chính vì vậy, vẫn còn có một số băn khoăn về nội dung nguyên tắc hạn chế quyền như sau:
(i) Chưa thống nhất quan điểm về quy định “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo hướng dẫn của luật”. Theo quan điểm truyền thống của Việt Nam (thể hiện trong Hiến pháp, một số Bộ luật lớn) thì luật ở đây được phân biệt với văn bản dưới luật (pháp lệnh, nghị định, thông tư,…). Tuy nhiên, hoàn toàn có thể có trường hợp ủy quyền lập pháp (ví dụ luật quy định Chính phủ quy định chi tiết một vấn đề nào đó, ví dụ quy định trong Luật đầu tư năm 2014 nêu ở trên). Trong khi đó, một số ý kiến cho rằng, chỉ nên quy định trong “luật” (nghĩa là không được ủy quyền lập pháp).[2] Ý kiến khác cho rằng, quy định này được hiểu là chỉ có luật mới có quyền đặt ra các hạn chế về quyền, nhưng không hạn chế các đơn vị nhà nước khác, trong đó bao gồm các đơn vị hành pháp có quyền ban hành các văn bản pháp luật khác để thực thi, cụ thể hóa bằng các quy định hạn chế theo hướng dẫn của luật. Cũng có ý kiến cho rằng việc quy định hạn chế quyền chỉ bằng quy định của luật là quá hẹp, đặt ra yêu cầu quá cao đối với việc hạn chế quyền con người.[3]
(ii) Chưa rõ thế nào là “trường hợp cần thiết“, “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” và “xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Đây là những vấn đề rất cần thiết, nếu không làm rõ thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng (soạn thảo, thẩm định), thi hành pháp luật về hạn chế quyền trong thực tiễn bởi bản thân nguyên tắc hạn chế quyền vốn đã mang tính trừu tượng, việc vận dụng trong thực tiễn không hoàn toàn đơn giản.