Trong nội dung trình bày hôm nay Luật LVN Group sẽ giới thiệ đến các bạn đọc về vấn đề Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm: Từ lí thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam
Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm: Từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam
1. Khái quát sự phát triển của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm trên thế giới
Trong mối tương quan giữa các nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng thì người tiêu dùng luôn luôn ở vị thế yếu hơn. Nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm là các thương nhân có kinh nghiệm và luôn nắm giữ thông tin trọn vẹn hơn về sản phẩm so với người tiêu dùng. Trong khi đó, người tiêu dùng là chủ thể trực tiếp sử dụng hàng hóa phải hàng ngày, hàng giờ đối mặt với nguy cơ mất an toàn và bị tổn hại do hàng hóa kém chất lượng hoặc có khuyết tật gây ra. Xã hội càng phát triển, nhu cầu bảo vệ người tiêu dùng – bên yếu thế càng được đặt ra cấp thiết.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng là công cụ pháp lý cần thiết đáp ứng đòi hỏi này. Trong quá trình hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này, các quy định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm đã ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng một cách trọn vẹn và hữu hiệu hơn trong xã hội hiện đại. Luật trách nhiệm sản phẩm (product liability) xuất hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ khoảng giữa thế kỷ XX, sau đó được tiếp nhận bởi các quốc gia ở Liên minh Châu Âu, ở Châu Á (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, các quốc gia Đông Nam Á).
Sự phát triển của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm đã trải qua nhiều giai đoạn với xu hướng ngày càng mở rộng phạm vi trách nhiệm của các nhà sản xuất. Trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, khi sản xuất công nghiệp còn thô sơ, bên mua và bên bán thường ở cùng một khu vực, nhiều khi là quen biết nhau. Bên bán thường đồng thời là thợ thủ công trực tiếp làm ra sản phẩm. Việc mua bán diễn ra dưới cách thức hai bên trực tiếp gặp gỡ, thương lượng với vị thế tương đối bình đẳng. Các sản phẩm được mua bán, trao đổi thời kỳ đó cũng tương đối đơn giản và người mua có thể dễ dàng kiểm tra, đánh giá chất lượng…
2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm sản phẩm
Trách nhiệm sản phẩm (product liability) là trách nhiệm của người sản xuất hoặc người bán hàng trong việc bồi thường các tổn hại gây ra bởi khuyết tật của hàng hóa mà họ đã gửi tới cho người tiêu dùng trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, trách nhiệm sản phẩm có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trách nhiệm sản phẩm là một loại trách nhiệm bồi thường tổn hại, đó là là trách nhiệm pháp lý của người sản xuất, người cung ứng sản phẩm hàng hoá đối với an toàn về sức khoẻ, tính mạng của người tiêu dùng. Về bản chất, trách nhiệm sản phẩm là một dạng trách nhiệm dân sự, theo đó khi có tổn hại xảy ra, pháp luật quy định buộc các chủ thể nhất định (chủ thể trực tiếp gây tổn hại hoặc có liên quan đến việc gây ra tổn hại) phải bù đắp những tổn hại đã gây ra cho người khác dựa trên căn cứ pháp luật về bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng hoặc do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.
Thứ hai, chủ thể gánh chịu trách nhiệm sản phẩm là người sản xuất hoặc người bán hàng, tức là một chủ thể tham gia vào quy trình đưa một sản phẩm đến người tiêu dùng, có mối liên hệ trực tiếp đối với sản phẩm
Thứ ba, cơ sở để xác định trách nhiệm sản phẩm là việc sản phẩm có khuyết tật và khuyết tật đó gây ra tổn hại cho người tiêu dùng. Khuyết tật của sản phẩm tồn tại dưới ba dạng: khuyết tật trong quá trình sản xuất, khuyết tật trong thiết kế sản phẩm, khuyết tật trong việc tiếp thị, quảng cáo sản phẩm (không cảnh báo nguy cơ mất an toàn cho người tiêu dùng).
3. Thực tiễn xét xử một số vụ án yêu cầu bồi thường tổn hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam trong những năm gần đây và đề xuất hoàn thiện pháp luật
Thực tiễn xét xử
Mặc dù Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có hiệu lực trên 8 năm, nhưng tình trạng xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam vẫn diễn ra phổ biến và ngày càng phức tạp. Trong khi đó, có rất ít vụ việc được người tiêu dùng khởi kiện ra tòa án theo các quy định pháp luật dân sự về bồi thường tổn hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, một phần do tâm lý tránh phiền phức, ngại đòi hỏi của đa số người tiêu dùng, phần vì các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của tòa án còn nhiều bất cập, chưa bảo vệ hiệu quả quyền lợi của người tiêu dùng. Trong khoảng 5- 6 năm trở lại đây, chỉ có một vài vụ án dân sự trong đó người tiêu dùng khởi kiện nhà sản xuất yêu cầu bồi thường tổn hại do sản phẩm không bảo đảm chất lượng.
Vụ án thứ nhất: Năm 2012, bà Q khởi kiện Công ty trách nhiệm hữu hạn liên doanh STADA – Việt Nam yêu cầu bồi thường tổn hại vì bà đã uống thuốc tránh thai khẩn cấp do Công ty này sản xuất nhưng vẫn có thai và phải bỏ thai bởi lo ngại sẽ có biến chứng xấu. Tòa án cấp sơ thẩm đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Q do nguyên đơn không chứng minh được các yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường. Bà Q kháng cáo, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm. Theo Tòa án cấp phúc thẩm, bà Q đã không chứng minh được bà có sử dụng viên thuốc tránh thai khẩn cấp được không; bà Q cũng không chứng minh được mình đã sử dụng thuốc theo đúng nội dung hướng dẫn sử dụng thuốc. Mặt khác, Tòa án lập luận rằng nếu bà Q. thực sự có sử dụng thuốc tránh thai theo đúng hướng dẫn nhưng vẫn có thai thì bị đơn cũng không có lỗi vì khuyến cáo trên sản phẩm đã ghi rõ “phương pháp tránh thai khẩn cấp không thể đạt hiệu quả trong mọi trường hợp”
Bình luận: Trong vụ án này, Tòa án không đề cập đến quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hay Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa và không xác định đây có phải là trường hợp bồi thường tổn hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng được không, mà chỉ áp dụng Bộ luật dân sự để giải quyết như một vụ án yêu cầu bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng thông thường, trong đó nguyên đơn phải chứng minh bốn yếu tố truyền thống cấu thành trách nhiệm là: có hành vi gây tổn hại, có tổn hại xảy ra, có lỗi của bị đơn, có mối quan hệ nhân quả. Trong khi đó, về bản chất, đây chính là một vụ án về trách nhiệm sản phẩm và tòa án cần lập luận chi tiết, chặt chẽ hơn về nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn cũng như các trường hợp miễn trách nhiệm.
Vụ án thứ hai: Bà Nguyễn Thị Bình Minh khởi kiện bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Coca-Cola về việc bà mua một chai nước cam ép Splash với giá 10.000 đồng, bên trong chai nước có chứa vật thể lạ là hai ống thủy tinh vỡ và một mảnh giấy nhỏ màu trắng đục. Bà Minh yêu cầu Công ty bồi thường cho bà số tiền mua một chai nước cam ép; có văn bản giải thích rõ với người tiêu dùng vì sao lại có vật thể lạ trong sản phẩm và công khai xin lỗi bà Minh và người tiêu dùng nói chung trên 05 số báo liên tiếp. Tòa án đã áp dụng Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định tổ chức sản xuất kinh doanh “hàng hóa không đảm bảo chất lượng” thì phải bồi thường cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, khi nhận định trong bản án thì Tòa án lại dùng thuật ngữ “hàng hóa có khuyết tật” là khái niệm được sử dụng trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Căn cứ Tòa án cho rằng “Vì hàng hóa (vật chứng mà nguyên đơn khởi kiện) không phải do Coca Cola Việt Nam hoàn thiện (dập nắp) nên không có căn cứ xác định Coca Cola Việt Nam có lỗi đối với hàng hóa có khuyết tật mà nguyên đơn khởi kiện”, “Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn số tiền mua một chai nước cam ép Splash của Coca – Cola Việt Nam, yêu cầu giải thích với người tiêu dùng về nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện tạp chất, ống thủy tinh trong sản phẩm nước cam ép Splash và công khai xin lỗi về việc để sản phẩm khuyết tật lưu hành trên thị trường”
Bình luận: Trong vụ án này, Tòa án đã đồng nhất giữa hai khái niệm “hàng hóa không đảm bảo chất lượng” và “hàng hóa có khuyết tật”, nhận định giản đơn về lỗi của chủ thể chịu trách nhiệm (hàng hóa không phải do bị đơn dập nắp nên bị đơn không có lỗi). Điểm mấu chốt trong vụ việc này mà tòa án chưa phân tích là không có tổn hại xảy ra cho người tiêu dùng – một yếu tố cần phải có trong vụ việc về trách nhiệm sản phẩm. Ở đây, người tiêu dùng mới chỉ có tổn hại (không đáng kể) về kinh tế (mất tiền mua chai nước nhưng không sử dụng được). Tòa án chỉ áp dụng Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2005 mà không đề cập quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hay Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Vụ án thứ ba: Ngày 02/10/2014 ông Kh mua 01 chiếc ti vi mới tại cửa hàng đại lý của công ty S để sử dụng cho gia đình, thời gian bảo hành 24 tháng kể từ ngày mua. Gia đình ông sử dụng tivi được hơn 9 tháng thì ti vi bị hỏng, chuyên viên bảo hành của công ty đã đến sửa chữa tại nhà. Ông tiếp tục sử dụng ti vi bình thường được 2 tháng thì ti vi lại hỏng, chuyên viên của trung tâm bảo hành có đến nhà ông xem xét và chụp ảnh chiếc ti vi có sự chứng kiến của ông. Sau đó trung tâm gọi điện thoại từ chối bảo hành và đưa ra lý do người tiêu dùng đã để nước vào ti vi và trời nồm ẩm gia đình không biết bảo quản. Ông đã nhiều lần gọi điện và trực tiếp đến tận trung tâm bảo hành của công ty để yêu cầu bảo hành nhưng không được giải quyết. Ông cho rằng ti vi bị hỏng là do sản phẩm này không đảm bảo chất lượng và nguyên nhân từ chối bảo hành không đúng. Ông Kh đã khiếu nại đến công ty S và đã nhận được thư giải quyết khiếu nại ghi “chấp thuận hỗ trợ đặc biệt là miễn phí toàn bộ sửa chữa”, nhưng gia đình ông không chấp nhận, từ đó Công ty S không đến bảo hành và không có động thái nào khác. Ông Kh khởi kiện yêu cầu công ty S phải bồi thường cho gia đình tổng số tiền 802.300.000đ do bán sản phẩm không đảm bảo chất lượng và không bảo hành sản phẩm theo hướng dẫn, vi phạm quyền lợi gia đình ông. Tòa án cấp sơ thẩm xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Kh. Ông Kh. kháng cáo cho rằng tòa án cấp sơ thẩm xác định sai nghĩa vụ chứng minh, vấn đề cần chứng minh và sai lầm trong đánh giá chứng cứ vì ông là người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của nhà sản xuất. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định rằng bị đơn đã gửi tới các chứng cứ chứng minh toàn bộ số hàng hóa là tivi sản xuất cùng thời gian ti vi đã bán cho gia đình ông Kh không có sản phẩm nào bị lỗi như ti vi của ông Kh. Nhân viên của công ty cũng đến kiểm tra lập biên bản hiện trạng và Tòa án cũng tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ nhưng gia đình ông Kh không hợp tác, không cho xem xét thẩm định đối với chiếc tivi S. Công ty S đã thiện chí sửa chữa miễn phí nhưng ông Kh không chấp nhận. Kết luận giám định của Bộ Công an cho thấy ti vi bị sọc đứng do mạch điều khiển bị hỏng, không xác định được nguyên nhân hỏng do bị tác động hay do tự nhiên. Chính sách bảo hành đã ghi rõ công ty S không bảo hành các trường hợp vì chất lỏng bị đổ vào sản phẩm. Do vậy sản phẩm ti vi S của gia đình ông Kh mua của đại lý công ty S bị hư hỏng không phải lỗi của nhà sản xuất và công ty S không bảo hành sản phẩm là đúng sự thỏa thuận mua bán giữa khách hàng và phía công ty. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm kết luận rằng chiếc ti vi bị hỏng không xem được không phải là do lỗi kỹ thuật của nhà sản xuất và không phải là hàng hóa khuyết tật, và theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 42 của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì người tiêu dùng là ông Kh cũng có nghĩa vụ gửi tới chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Ông Kh đề nghị bồi thường nhưng xét thấy không có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và hậu quả nên không phát sinh nghĩa vụ bồi thường giữa các bên. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định cấp sơ thẩm đã áp dụng trọn vẹn quy định tại Điều 42 của Luật Bảo vệ người tiêu dùng và các điều luật về chứng cứ, chứng minh theo hướng dẫn của Bộ luật tố tụng dân sự để áp dụng trong việc giải quyết vụ án
Bình luận: Có thể nói đây là bản án có lập luận chi tiết nhất trong số 4 vụ án nêu trên về trách nhiệm bồi thường do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, nhưng lập luận của Tòa án vẫn còn một số điểm chưa thuyết phục. Tòa án viện dẫn cả Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đồng thời mặc nhiên khẳng định chiếc ti vi hỏng không phải là “hàng hóa có khuyết tật” mà không giải thích. Các yếu tố cần chứng minh tuy đã được đề cập phần nào (như lỗi, mối quan hệ nhân quả) nhưng chưa được phân tích một cách thấu đáo.
Nhận xét, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành từ thực tiễn xét xử và đề xuất hoàn thiện pháp luật
Có thể rút ra những điểm chung và những bất cập sau đây trong thực tiễn xét xử tranh chấp về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Tòa án:
Thứ nhất, Tòa án đều bác yêu cầu khởi kiện của người tiêu dùng vì họ không thực hiện được nghĩa vụ gửi tới chứng cứ và chứng minh, tuy nhiên, chỉ có duy nhất vụ án thứ 3 là Tòa án có lập luận tương đối chi tiết về nghĩa vụ chứng minh này theo hướng dẫn của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong các bản án còn lại, lập luận của Tòa án khá sơ sài, hời hợt, chưa chỉ rõ dựa những yếu tố nào cần chứng minh để cấu thành trách nhiệm bồi thường, nguyên đơn đã chứng minh được những yếu tố nào, những yếu tố nào chưa chứng minh được. Vì vậy, trên thực tiễn, rất khó để người tiêu dùng có thể thắng kiện khi yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình.
Thứ hai, các tòa án dường như đang có sự đồng nhất, lẫn lộn giữa khái niệm “hàng hóa không bảo đảm chất lượng” trong Bộ luật dân sự và “hàng hóa có khuyết tật” trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ ba, Tòa án đều không áp dụng hoặc thậm chí không biết đến quy định về bồi thường tổn hại trong Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, mà cho rằng tranh chấp về bồi thường tổn hại liên quan đến quyền lợi của người tiêu dùng thì mặc nhiên áp dụng Bộ luật dân sự và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bất kể vụ việc có thuộc trường hợp “hàng hóa có khuyết tật” được không. Vì vậy, quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa về bồi thường tổn hại do hàng hóa không bảo đảm chất lượng rõ ràng không phát huy vai trò trên thực tiễn, nếu không muốn nói là được đặt không đúng vị trí
Có thể nói pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Việt Nam vẫn còn khá sơ sài, thiếu vắng nhiều quy định, mặc khác còn có sự chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản luật. Do đó, pháp luật cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trên cơ sở cân nhắc kinh nghiệm lập pháp và án lệ của các nước trên thế giới:
Một là, bỏ các quy định về bồi thường tổn hại do hàng hóa không bảo đảm chất lượng trong Mục 2 Chương 5 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Hai là, đảm bảo sự thống nhất, hài hòa trong quy định về trách nhiệm sản phẩm của Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 theo một trong hai phương án:
Phương án 1: bỏ Điều 608 Bộ luật dân sự năm 2015 và quy định chi tiết về trách nhiệm sản phẩm trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phương án 2: giữ nguyên Điều 608 Bộ luật dân sự năm 2015 nhưng thống nhất sử dụng khái niệm “hàng hóa có khuyết tật” (là khái niệm đã được thừa nhận chung trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm trên thế giới) và đưa các quy định về trách nhiệm sản phẩm trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng vào Bộ luật dân sự với tư cách là một trường hợp bồi thường tổn hại cụ thể để tòa án dễ dàng trong việc áp dụng.
Ba là, dù được xây dựng theo phương án nào nêu trên thì các quy định pháp luật Việt Nam cũng cần làm rõ định nghĩa về các dạng hàng hóa có khuyết tật, các yếu tố mà nguyên đơn (người tiêu dùng) cần chứng minh, những loại tổn hại nào được chấp nhận bồi thường, quy định bổ sung các trường hợp miễn trách nhiệm, nhằm bảo đảm cân bằng lợi ích giữa người tiêu dùng và các chủ thể sản xuất, kinh doanh.
Trên đây là nội dung nội dung trình bày về Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm: Từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam. Nếu có vướng mắc trong quá trình giải quyết hãy liên hệ ngay với công ty Luật LVN Group chúng tôi để được tư vấn nhanh nhất. Chúc các bạn thành công