Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc là nhiệm vụ then chốt của Chiến lược phát triển văn hóa. Trong thời gian qua, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trên địa bàn ngày càng được quan tâm, chú trọng. Vì vậy, Phát huy và bảo tồn di sản văn hóa vật thể cho các thế hệ mai sau thế nào? trong nội dung trình bày này cùng Luật LVN Group cân nhắc nào.
Phát huy và bảo tồn di sản văn hóa vật thể cho các thế hệ mai sau
1. Những thành tựu nổi bật trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Trong sự nghiệp bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu. Xin được lựa chọn 7 thành tựu tiêu biểu nhất bởi giá trị về tầm nhìn, ý nghĩa xã hội và quốc tế.
Một là, Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo tồn cổ tích.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SLvề bảo tồn cổ tích trong toàn cõi Việt Nam, trong đó xác định: Bảo tồn cổ tích là việc rất cần cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam. Tại Điều 4 của Sắc lệnh nêu rõ: Cấm phá hủy đình chùa, đền miếu, hoặc những nơi thờ tự khác như cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy những bia ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tôn giáo nhưng có ích cho lịch sử.
Với ý nghĩa lịch sử to lớn của Sắc lệnh này, ngày 24/02/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 36/QĐ-TTg lấy ngày 23 tháng 11 hàng năm là Ngày Di sản văn hoá Việt Nam nhằm phát huy truyền thống và ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân hoạt động trên lĩnh vực di sản văn hoá, động viên và thu hút mọi tầng lớp xã hội tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá dân tộc.
Hai là, Luật Di sản văn hoá năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 điều chỉnh cả di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể.
các di tích lịch sử – văn hoá (di sản vật thể) ở nước ta đều hàm chứa những giá trị tinh thần (di sản phi vật thể) to lớn và sâu sắc, gắn kết với nhau. Việc phân định giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chỉ là tương đối. Đồng thời, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998, khi đề ra nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đã nhấn mạnh cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Bởi vậy, việc đưa di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh và di sản văn hoá phi vật thể vào Luật Di sản văn hoá được nhiều chuyên gia quốc tế cho là hợp lý mà không phải nước nào cũng có được một bộ luật chung như vậy.
Ba là, Nghi định của Chính phủ số 62/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2014 Quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể và Nghi định số 109/2017/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2017 Quy định về bảo vệ và quản lý di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới có ý nghĩa đối với cộng đồng xã hội và quốc tế.
Việc xét tặng danh hiệu nghệ nhân thể hiện sự quan tâm và ghi nhận của Đảng và Nhà nước ta đối với những nghệ nhân có đóng góp xuất sắc, nắm giữ và có công truyền dạy, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc.
Nghị định về Bảo vệ và quản lý di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam nhằm bảo vệ Giá trị Nổi bật Toàn cầu, tính xác thực và toàn vẹn của di sản thế giới, thực hiện những cam kết của Việt Nam đối với UNESCO. Văn bản pháp lý này được sự quan tâm của quốc tế, bởi vì nhiều nước không có một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao riêng cho việc quản lý di sản thế giới ở nước mình.
Bốn là, Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO ghi danh 5 danh hiệu.
Không có ở các di sản khác của Việt Nam và cũng hiếm thấy ở các nước trên thế giới, trong một khu di sản lại được UNESCO ghi danh tới 5 danh hiệu cao quý: Quần thể di tích Cố đô Huế là Di sản văn hoá thế giới (1993), Nhã nhạc – Âm nhạc cung đình Việt Nam là Di sản văn hoá phi vật thể uỷ quyền của nhân loại (2003) và 3 di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới: Mộc bản triều Nguyễn (2009), Châu bản triều Nguyễn (2017) là Di sản tư liệu thế giới và Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016) là Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Năm là, Quần thể danh thắng Tràng An – Di sản hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam Á, được UNESCO ghi danh là di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới.
Ngày 23/6/2014, tại Phiên họp lần thứ 38 của Ủy ban Di sản thế giới, Quần thể danh thắng Tràng An, tỉnh Ninh Bình đã được UNESCO ghi danh là Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới. Quần thể danh thắng Tràng An có tính phức hợp về Giá trị Nổi bất Toàn cầu, bao gồm cả giá trị về địa chất địa mạo – cảnh quan, giá trị rừng nguyên sinh đặc dụng Hoa Lư và giá trị lịch sử – văn hóa (di tích khảo cổ học chứng minh cho quá trình thích ứng của con người thời tiền sử với biến đổi khí hậu, nước biển dâng) và Khu di tích Cố đô Hoa Lư – Kinh đô đầu tiên của nhà nước Đại Việt có chủ quyền.
Sáu là, Hát Xoan Phú Thọ là di sản đầu tiên trong các nước thành viên được UNESCO chuyển từ Danh sách Di sản văn hoá phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp sang Danh sách Di sản văn hoá phi vật thể uỷ quyền của nhân loại.
Bảy là, Di sản văn hóa không chỉ có giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa và khoa học, mà còn là một nguồn lực cần thiết cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Trong nhiều năm qua, với kết quả nổi bật trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, bằng việc đa dạng hóa các sản phẩm du lịch và tăng cường hoạt động quảng bá, di sản văn hóa ở nước ta trở thành điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước, số lượt khách và nguồn thu từ phí tham quan năm sau đều cao hơn năm trước.
2. Nhận thức về giá trị di sản văn hóa trong phát triển bền vững
Trên thế giới hiện đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về phát triển, trong đó có xu hướng coi kinh tế, khoa học và công nghệ là nền tảng của phát triển. Đúng là ba lĩnh vực nêu trên rất cần thiết, nhưng phát triển là một phức hợp đa chiều, tác động qua lại lẫn nhau, gắn bó hữu cơ với rất nhiều thành tố tạo nên sự phát triển; và, suy cho cùng, hạt nhân cơ bản của phát triển là phẩm chất, trí tuệ và giá trị sáng tạo của con người – con người văn hóa.
Nhận thức được tầm cần thiết của phát triển bền vững trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hoá và thách thức của biến đổi khí hậu, tại Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020”.
Thông qua quan điểm, mục tiêu, định hướng ưu tiên và giải pháp nêu trong Chiến lược, chúng ta có thể nghiên cứu cụ thể hoá những tư tưởng sau đây của Chiến lược vào trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá vì sự phát triển bền vững:
Một là, Con người là trung tâm, là mục tiêu của phát triển bền vững.
Xu hướng chung của thế giới ngày nay là hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, cả vật thể và phi vật thể, phải hướng tới cộng đồng hiện đang sống trong khu vực di sản và cộng đồng là du khách đến tham quan di sản.
Trong cái vỏ vật chất của di tích lịch sử – văn hoá đều hàm chứa những giá trị to lớn về di sản văn hoá phi vật thể, mà cộng đồng chính là người sở hữu, bảo tồn, trao truyền và thực hành di sản. Trong Công ước UNESCO 2003 về Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể đã ghi nhận rằng, Các cộng đồng, đặc biệt là các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân đóng một vai trò hết sức cần thiết trong việc bảo vệ, duy trì, thực hành và tái tạo di sản văn hoá phi vật thể, từ đó làm giàu thêm sự đa dạng văn hoá và tính sáng tạo của con người.
Di tích lịch sử – văn hoá đến từ quá khứ, nhưng không đơn thuần chỉ là quá khứ mà phải mang hơi thở của thời đại, phải thực sự trở thành một bộ phận hữu cơ của đời sống đương đại. Việc bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản này chính là sự đóng góp cho phát triển bền vững. Trong quá trình triển khai các dự án bảo tồn di sản, cần đặt ra nhiệm vụ nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về giá trị của di tích cho cộng đồng sở tại để cộng đồng tham gia có trách nhiệm vào công tác bảo vệ; đào tạo tại chỗ những người dân có tay nghề, có kiến thức hiểu biết về di tích trực tiếp tham gia vào hoạt động bảo tồn hoặc hướng dẫn du khách tham quan di tích, thực hành các trải nghiệm du lịch sinh thái; đồng thời khuyến khích cộng đồng tạo ra những sản phẩm đặc thù, riêng có của địa phương để phục vụ du khách, thông qua đó góp phần nâng cao đời sống người dân sở tại.
Đối với cộng đồng sống trong khu vực di sản thiên nhiên, bên cạnh việc tạo điều kiện, khuyến khích cộng đồng vận dụng những kinh nghiệm, tri thức truyền thống mà họ tích lũy được trong việc bảo vệ, khai thác nguồn lợi từ rừng, cần có cơ chế chia sẻ lợi ích với cộng đồng từ hoạt động bảo tồn và khai thác các nguồn tài nguyên, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào các hoạt động phát triển đa dạng sinh học, tạo công ăn việc làm cho cộng đồng sống trong khu vực di sản;
Hai là. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không thể tái tạo.
Di tích lịch sử – văn hoá cũng là một loại “tài nguyên” không thể tái tạo. Điều cốt lõi trong hoạt động bảo tồn di tích là bằng nhiều giải pháp kỹ thuật cổ truyền và khoa học-công nghệ hiện đại giữ cho được “yếu tố gốc cấu thành di tích” (theo từ ngữ của Luật Di sản văn hoá Việt Nam), hay “tính xác thực”, “tính toàn vẹn”, “Giá trị Nổi bật Toàn” cầu của di sản (theo từ ngữ của Công ước UNESCO 1972 về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới) nhằm bảo tồn và khai thác giá trị di tích một cách căn cơ, có trách nhiệm vì sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội, không chỉ cho ngày hôm nay, mà còn gìn giữ được loại “tài nguyên không thể tái tạo” này để chuyển giao cho các thế hệ mai sau.
Mỗi loại hình di sản văn hoá cần có cách tiếp cận và phương pháp bảo tồn đặc thù, nhưng chắc chắn không thể thiếu phương pháp nghiên cứu liên ngành, thậm chí xuyên ngành. Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá không chỉ được hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu về khoa học xã hội (sử học, khảo cổ học, dân tộc học, Hán Nôm, văn hoá dân gian, mỹ thuật, kiến trúc,…), mà nhiều ngành khoa học tự nhiên (vật lý, hoá học, sinh học, địa chất, xây dựng,…) cũng góp phần không nhỏ.
Đối với di sản văn hóa phi vật thể, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả to lớn và có ý nghĩa, đã có cách tiếp cận mới trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị loại tài sản dễ bị tổn thương này; tuy nhiên, trên thực tiễn cũng còn một số loại hình di sản văn hoá phi vật thể đang đứng trước nhiều thách thức và sự mai một, như di sản truyền khẩu, tri thức dân gian, tập cửa hàng xã hội… Không gian văn hóa thay đổi làm biến đổi thực hành di sản, số lượng người thực hành di sản ngày một ít, nguồn tài chính hỗ trợ cộng đồng bảo tồn và trao truyền di sản rất ít và không thường xuyên…
Ba là, Hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng.
Một đặc điểm nổi bật của di tích lịch sử – văn hóa ở nước ta là rất đa dạng, phong phú về mặt loại hình (đình, đền, chùa, miếu, thành quách, lăng tẩm, đền tháp, cung điện, nhà cổ, di tích cách mạng, kháng chiến,…) và về chất liệu (gạch, đá, gỗ, tre, nứa, lá,…), trong đó, tuyệt đại đa số là chất liệu hữu cơ, rất dễ bị biến dạng, nấm mốc, mối mọt, hư hỏng, xuống cấp, sụp đổ do thời tiết nhiệt ẩm, mưa bão, lũ lụt, đặc biệt là sự biến đổi khí hậu trong nhiều năm gần đây. Việt Nam là quốc gia có chiều dài bờ biển khoảng gần 3.500 km cùng với hơn 2.773 hòn đảo lớn, nhỏ.
Nhiệm vụ bảo tồn, kéo dài “tuổi thọ” di tích lịch sử-văn hóa – một loại “tài nguyên không thể tái tạo” trong điều kiện biến đổi khí hậu khó lường như hiện nay là một thách thức to lớn đối với thể hệ chúng ta ngày hôm nay. Bên cạnh việc áp dụng những kinh nghiệm, phương pháp bảo tồn truyền thống và ứng dụng phương pháp khoa học – công nghệ hiện đại, cần nghiên cứu triển khai số hóa dữ liệu về di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh để có thể khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu mở phục vụ công tác quản lý, nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản.
Bốn là, Bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học.
Việt Nam được xếp vào loại có tính đa dạng sinh học cao. Trong số các di sản thiên nhiên có 3 di sản được UNESCO ghi danh là Di sản thiên nhiên thế giới: Vịnh Hạ Long được ghi danh 2 lần (lần thứ nhất – năm 1994 về vẻ đẹp, lần thứ hai – năm 2000 về địa chất địa mạo, và hiện nay Thành phố Hải Phòng đang cùng với Tỉnh Quảng Ninh xây dựng hồ sơ trình UNESCO ghi danh Vịnh Hạ Long – Quần đảo Cát Bà là Di sản thế giới về đa dạng sinh học). Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng cũng được UNESCO ghi danh 2 lần (lần thứ nhất – năm 2003 về địa chất địa mạo, lần thứ hai – năm 2015 về đa dạng sinh học). Quần thể danh thắng Tràng An gồm 3 bộ phận hợp thành Giá trị Nổi bật Toàn cầu là giá trị về địa chất địa mạo – cảnh quan, giá trị rừng nguyên sinh đặc dụng Hoa Lư và giá trị lịch sử – văn hóa. Việt Nam còn có các khu dự trữ sinh quyển quốc gia được UNESCO ghi danh, các khu di sản thiên nhiên của Asean,….
Năm là. Tăng cường năng lực quản lý và phát triển nguồn nhân lực phát triển bền vững.
Mục tiêu hướng tới của việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh là xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn có tính chuyên nghiệp cao, một đội ngũ thợ lành nghề được trang bị và nắm vững những quy định của Luật Di sản văn hóa và những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, cũng như những quy định của Công ước và Hiến chương quốc tế về Di sản thế giới; được trang bị các phương pháp khoa học về bảo tồn truyền thống và hiện đại; có năng lực phối hợp và liên kết với các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn để quản lý và triển khai trên thực tiễn các hoạt động quy hoạch, thiết kế, bảo quản, tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Do đặc điểm và tính đặc thù của nguồn nhân lực tham gia hoạt động quản lý, bảo tồn di sản là tính đa nguồn về các lĩnh vực mà người học đã được đào tạo tại các trường đại học (kiến trúc, xây dựng, vật lý, hóa học, tin học, sử học, văn hóa học, mỹ thuật, nhân học, khảo cổ học, sinh học, văn hóa dân gian,…), nghệ nhân, thợ lành nghề, nên chương trình học, cách học, thời gian học phải được thiết kế một cách khoa học. Hết sức chú ý đào tạo thợ lành nghề truyền thống phục vụ công tác bảo tồn di tích, kỹ năng thực hành, hướng dẫn và trao đổi trực tiếp với người học tại di tích (“hội thảo đầu bờ”); sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hiện đại vào công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản
3. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội
Không phải ở đâu và cũng không phải lúc nào người ta cũng giải quyết được một cách hài hòa giữa bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là trong không gian đô thị. Không phải chỉ ở nước nghèo mà ngay cả ở nước phát triển thì sự “xung đột” đó vẫn thường xảy ra. Và, trên thực tiễn, vì những lý do khác nhau, trong khá nhiều trường hợp, sự “xung đột” thường kết thúc với lợi thế về phía phát triển kinh tế – xã hội.
Hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và phát triển kinh tế – xã hội không phải là hai mặt đối lập mà là một thể thống nhất, đều hướng tới mục tiêu chung là vì sự phát triển bền vững. Ở nước ta, sự “xung đột” giữa bảo tồn và phát triển như nêu trên không phải hiếm gặp ở nơi này, nơi kia.
Di tích lịch sử – văn hoá là một loại tài nguyên không thể tái sinh, không thể thay thế, nên về mặt nguyên tắc, không được huỷ hoại, không được làm ảnh hưởng đến giá trị, tính xác thực, yếu tố gốc cấu thành di tích, tính toàn vẹn của di sản; cần thực hiện nghiêm túc quy định của Luật Di sản văn hoá về các khu vực bảo vệ của di tích.
Ở nhiều nước trên thế giới và cả ở Việt Nam, để giải quyết hài hòa giữa bảo tồn di tích thuộc loại hình khảo cổ học và xây dựng các công trình phát triển kinh tế – xã hội, thường được áp dụng một trong 3 giải pháp:
Một là, di tích được xác định có giá trị đặc biệt, có điều kiện kinh tế – kỹ thuật – công nghệ bảo tồn, bảo vệ và phát huy giá trị di tích thì xây dựng dự án bảo tồn tại chỗ như là một “bảo tàng ngoài trời” phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan du lịch.
Hai là, di tích được xác định có giá trị cần thiết, nhưng trước mắt không có điều kiện bảo tồn tại chỗ thì đưa hiện vật khai quật được về bảo quản và trưng bày trong bảo tàng; tiến hành phủ lớp vải địa kỹ thuật lên toàn bộ bề mặt hố khai quật, rồi lấp cát và bàn giao mặt bằng cho chủ dự án, khi có điều kiện thì khai quật trở lại. Phía trên bề mặt hố khai quật được cắm mốc giới và biển giới thiệu về di tích.
Ba là, di tích có giá trị, nhưng không có điều kiện bảo tồn tại chỗ, trong khi yêu cầu xây dựng công trình phát triển kinh tế – xã hội thấy cần được ưu tiên (như làm đường giao thông,…), sau khi hoàn thành công tác khai quật khảo cổ học thì chuyển toàn bộ tài liệu, hiện vật về lưu trữ, bảo quản tại bảo tàng phục vụ công tác nghiên cứu, trưng bày, phát huy giá trị di tích; đồng thời, lấp hố khai quật, bàn giao mặt bằng cho chủ dự án tiếp tục thi công công trình xây dựng.
Các tổ chức quốc tế đã từng đưa ra những khuyến nghị: Khi xây dựng chính sách, thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội cần có sự “vào cuộc” ngay từ đầu của 3 lực lượng: nhà quản lý, chủ dự án, chuyên gia các lĩnh vực có liên quan và cộng đồng được hưởng lợi hoặc bị thiệt thòi từ chính sách hoặc dự án mang lại. Việc chủ động phối hợp chặt chẽ giữa 4 lực lượng nêu trên sẽ đảm bảo tính pháp lý, tính thực tiễn trong việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn di sản với phát tiển kinh tế – xã hội.
Kho tàng di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh và di sản văn hóa phi vật thể mà tiền nhân để lại là một loại tài sản to lớn và quý giá, một nguồn lực cho phát triển bền vững. Thế hệ chúng ta ngày hôm nay có trách nhiệm bảo tồn và phát huy hiệu quả những giá trị di sản vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội ngày hôm nay và chuyển giao tài sản đó cho các thế hệ mai sau. Đó chính là phát triển bền vững
Trên đây là các thông tin về Phát huy và bảo tồn di sản văn hóa vật thể cho các thế hệ mai sau Luật LVN Group cập nhật được xin gửi đến các bạn đọc, hi vọng với nguồn thông tin này sẽ là nguồn kiến thức hữu ích giúp các bạn hiểu hơn vấn đề trên. Trong quá trình nghiên cứu nếu có vấn đề câu hỏi vui lòng liên hệ công ty Luật LVN Group để được hỗ trợ ngay !.