Phương thức xây dựng luật quốc tế

Luật quốc tế có ý nghĩa và những vai trò cần thiết trong thực tiễn đời sống. Luật quốc tế trong giai đoạn hiện nay đang là một trong những khối ngành nghề nhận được nhiều sự quan tâm. Vậy Phương thức xây dựng luật quốc tế là gì? Trong phạm vi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group sẽ gửi tới đến quý bạn đọc thông tin về luật quốc tế và phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế.
Phương thức xây dựng luật quốc tế

1. Luật quốc tế là gì?

Luật quốc tế được hiểu chính là một hệ thống của các nguyên tắc và quy phạm pháp luật và nó được tạo dựng dựa trên sự thỏa thuận giữa các quốc gia và các chủ thể khác nhau trên phạm vi toàn thế giới. Luật quốc tế đã được thành lập từ lâu và nó được thành lập dựa trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng giữa các nước nhằm mục đích để giải quyết những vấn đề phức tạp mà các vấn đề này có thể phát sinh giữa các quốc gia; đảm bảo được an ninh thế giới trong đa số các hoạt động ảnh và lĩnh vực của đời sống quốc tế.
Sự hình thành và phát triển của bộ luật quốc tế đã được tạo ra khi những mối quan hệ giữa các quốc gia đã được mở rộng trên mọi lĩnh vực đời sống và nó đã được bắt đầu từ các lĩnh vực khác nhau cụ thể như kinh tế, chính trị và giáo dục, y tế,… Và, nó đã vượt xa ra khỏi phạm vi khu vực và sự phát triển của các quốc gia đó.
Các mối quan hệ đều có tính chất liên khu vực hoặc cộng đồng quốc tế, ta nhận thấy rằng, những quan hệ này sẽ phải luôn luôn được điều chỉnh làm sao để nó có thể phù hợp nhất với quy phạm pháp luật tương ứng và các quy phạm pháp luật của mỗi quốc gia. Luật quốc tế trong giai đoạn hiện nay, hay còn được gọi là công pháp quốc tế được tạo ra nhằm mục đích để có thể đảm bảo việc thi hành những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc là tập thể cho các chính phủ mà luật quốc tế đảm bảo quyền lợi.
Ta thấy được rằng, ngành luật quốc tế ra đời cũng tương ứng với việc các chủ thể ở trên thế giới và luôn luôn đảm bảo rằng hành vi của mình được thi hành để nhằm mục đích có thể đảm bảo cho các quyền lợi chung của chính mình và của các chủ thể khác. Cũng chính bởi vì vậy thì các quốc gia cần phải phải có những đối tượng hiểu biết về luật và luật quốc tế để có thể trợ giúp cho những hoạt động về quy phạm pháp luật trong nước và cả ngoài nước, làm bảo những hành động đó được thực thi theo đúng khuôn khổ của pháp lý.
Ngành luật quốc tế ra đời nhằm mục đích có thể tạo điều kiện và cơ hội việc làm cho những sinh viên.Các sinh viên cũng sẽ cần đáp ứng kiến thức từ cơ bản cho tới chuyên sâu của các môn học như là công pháp quốc tế, Luật Kinh tế, Luật tổ chức quốc tế hoặc là Luật thương mại quốc tế.

2. Đặc điểm của luật quốc tế

Trình tự xây dựng của các quy phạm sách luật quốc tế được sắp xếp cụ thể với nội dung như sau:
– Không có đơn vị luật pháp nào được lập ra nhằm mục đích để có thể xây dựng các quy phạm pháp luật của luật quốc tế.
– Con đường hình thành của luật quốc tế trên thực tiễn sẽ đều sẽ dựa trên sự thỏa hiệp và thỏa thuận giữa các quốc gia dưới cách thức là thực hiện việc ký kết các điều ước quốc tế hoặc là các quốc gia sẽ cùng nhau đưa ra các thừa nhận về tập cửa hàng quốc tế
– Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế cũng có những liên quan tới những quan hệ nhiều mặt trong đời sống, quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật,… giữa các chủ thể của pháp luật quốc tế (nhưng đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế chủ yếu là xoay quanh những vấn đề liên quan tới quan hệ chính trị những mối quan hệ có tính chất Liên quốc gia).
– Chủ thể của luật quốc tế được biết đến chính là những chủ thể có thể thực hiện các quyền năng tham gia vào mối quan hệ pháp lý quốc tế. Chủ thể của luật quốc tế cũng chính là các quốc gia có chủ quyền các dân tộc đang trong quá trình đấu tranh giành độc lập, các tổ chức quốc tế liên chính phủ, hoặc là các thực thể đặc biệt của luật quốc tế,…
Ta nhận thấy rằng, Luật quốc tế có vai trò cần thiết và ý nghĩa to lớn nhằm mục đích để có thể đảm bảo được các vấn đề liên quan tới Luật thương mại quốc tế hay là các vấn đề liên quan tới ngành Luật an ninh thế giới. Luật quốc tế cũng chính là công cụ cần thiết được sử dụng nhằm mục đích để có thể điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế nhằm từ đó có thể đảm bảo vệ lợi ích của mỗi một chủ thể của luật quốc tế trong mối quan hệ quốc tế.

3. Đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế

Đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế thực chất chính là các quan hệ nhiều mặt phát sinh trong đời sống quốc tế nhưng chủ yếu là các quan hệ chính trị hoặc các khía cạnh chính trị.
Quan hệ do Luật quốc tế điều chỉnh chính là quan hệ giữa các quốc gia hoặc các thực thể quốc tế khác, cụ thể như các tổ chức quốc tế liên quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập nảy sinh trong các lĩnh vực (chính trị, kinh tế, xã hội…) của đời sống quốc tế.
Quan hệ do Luật quốc tế điều chỉnh cũng khác với các quan hệ do luật quốc gia điều chỉnh, quan hệ thuộc phạm vi tác động của Luật quốc tế là quan hệ mang tính liên quốc gia, liên chính phủ, phát sinh trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống quốc tế.
Những quan hệ đó đều đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng những quy phạm của Luật quốc tế.
Vì vậy, ta nhận thấy rằng, quan hệ liên quốc gia,(liên chính phủ) giữa các quốc gia và các thực thể Luật quốc tế khác phát sinh trong mọi lĩnh vực cụ thể như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… và nó cũng sẽ được điều chỉnh bằng Luật quốc tế gọi là quan hệ pháp luật quốc tế.
Các quan hệ Pháp luật quốc tế đều có đặc trưng cơ bản đó là bởi sự tồn tại của yếu tố trung tâm là quốc gia. Sự tồn tại của yếu tố trung tâm là quốc gia trong quan hệ Pháp luật quốc tế được biết đến là chủ thể có chủ quyền và việc thực hiện quyền năng chủ thể Luật quốc tế của quốc gia do thuộc tính chủ quyền chi phối đã tạo ra sự điều chỉnh khác biệt của Luật quốc tế so với cơ chế điều chỉnh của Luật quốc gia.

4. Phương pháp điều chỉnh của luật quốc tế

Là cách thức và biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong quá trình xây dựng, thực thi pháp luật quốc tế. Các chủ thể của luật quốc tế sử dụng nhiều cách thức và biện pháp khác nhau, trong đó, có hai phương pháp được sử dụng phổ biến là:

  • Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận, tự nguyện và hợp tác giữa các chủ thể.
  • Trong những trường hợp cần thiết, các chủ thể của luật quốc tế có thể dùng phương pháp cưỡng chế, can thiệp riêng lẻ hay tập thể phù hợp các quy định của luật quốc tế. Can thiệp riêng lẻ là biện pháp cưỡng chế do 1 chủ thể thực hiện nhằm trừng trị chủ thể có hành vi vi phạm (như đáp trả quân sự của quốc gia bị xâm lược). Cưỡng chế tập thể là biện pháp cưỡng chế do nhiều chủ thể thực hiện (thường do một nhóm quốc gia hoặc một tổ chức quốc tế đoàn kết với quốc gia để áp dụng các biện pháp trừng trị đối với quốc gia có hành vi vi phạm.

Luật Quốc tế quy định một số biện pháp cưỡng chế:

  • Điều 41 Hiến chương Liên hiệp quốc quy định các biện pháp phi vũ trang: Trừng phạt kinh tế; cắt đứt quan hệ ngoại giao; Phong tỏa cảng biển, đường biển, đường không, bưu chính…
  • Điều 42 Hiến chương Liên hiệp quốc quy định các biện pháp vũ trang: Biểu dương lực lượng, phong tỏa và những cuộc hành quân khác do Hải, Lục, Không quân của các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc thực hiện.

5. Phương thức xây dựng luật quốc tế

Pháp luật quốc tế được hình thành, xây dựng trên cơ sở đấu tranh thương lượng, thỏa thuận bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa các chủ thể của Luật Quốc tế.
– Tính hợp hiến
Văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm tính hợp hiến khi nội dung văn bản đó phải đồng thời phù hợp với các nguyên tắc, quy định và tinh thần của Hiến Pháp.
Tính hợp hiến được thể hiện thông qua việc không trái với các nguyên tắc, quy định của hiến Pháp. Để đảm bảo văn bản QPPL không trái với các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp thì đơn vị soạn thảo phải nắm rõ và hiểu đúng các quy định cụ thể của Hiến pháp liên quan đến lĩnh vực điều chỉnh của văn bản đang soạn thảo.
– Tính hợp pháp
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật là việc phải tuân thủ thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật, tức phải phù hợp với văn bản QPPL của đơn vị cấp trên. Để đảm bảo tính hợp pháp của văn bản QPPL thì ngay từ giai đoạn soạn thảo, đơn vị soạn thảo cần phải rà soát, hệ thống hoá trọn vẹn các văn bản QPPL hiện hành có liên quan và đang còn hiệu lực để đối chiếu và kiểm tra tính hợp pháp với dự thảo văn bản mà mình đang soạn thảo.
– Tính thống nhất
Tính thống nhất của nội dung dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật là việc văn bản do một đơn vị ban hành không được mâu thuẫn với các văn bản QPPL khác của chính đơn vị đã ban hành văn bản đó; văn bản của đơn vị nhà nước cấp dưới không được mâu thuẫn với văn bản của đơn vị nhà nước cấp trên. Người soạn thảo có trách nhiệm đảm bảo tính thống nhất của văn bản được soạn thảo với hệ thống pháp luật hiện hành trên cơ sở cân nhắc thứ bậc hiệu lực của văn bản sao cho không có mâu thuẫn, chồng chéo ngay trong nội tại văn bản; không có mâu thuẫn, chồng chéo giữa văn bản quy định chi tiết và văn bản được quy định chi tiết; không có mâu thuẫn, chồng chéo với văn bản của đơn vị ngang cấp.
– Không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế
Không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội Việt Nam là thành viên. Nội dung của văn bản QPPL phải tương thích với các cam kết trong các điều ước quốc tế song phương, đa phương mà Việt Nam là thành viên; không cản trở, gây khó khăn đối với việc thực hiện điều ước quốc tế đó.
Luật năm 2015 và Luật Điều ước quốc tế đều có quy định ưu tiên áp dụng các quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề.
Khoản 5 Điều 156 Luật năm 2015 quy định: “Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong nước không được cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp”.
Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định: “Trường hợp văn bản QPPL và điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp”.
Vì vậy, có thể thấy mặc dù không quy định trực tiếp về vị trí của điều ước quốc tế đối với pháp luật quốc gia nhưng điều ước quốc tế là căn cứ để xây dựng thẩm định văn bản QPPL và được ưu tiên áp dụng trước pháp luật quốc gia (trừ Hiến pháp) nếu có quy định khác nhau về cùng một vấn đề.
Để điều ước quốc tế được thực thi, khoản 2 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế quy định: “Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với đơn vị, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản QPPL để thực hiện điều ước quốc tế đó”.
Vì vậy, các quy định của điều ước quốc tế có thể có hiệu lực trực tiếp hoặc thông qua việc nội hoá bằng việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới các văn bản QPPL trong nước.
Trên đây là nội dung trình bày về Phương thức xây dựng luật quốc tế mời bạn đọc thêm cân nhắc và nếu có thêm những câu hỏi về nội dung trình bày này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với LVN Group theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. LVN Group đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com