Quyền con người trong văn kiện đại hội XIII của Đảng 

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình thành, phát triển các quan điểm của Đảng về quyền con người trong thời kỳ đổi mới, đã đề ra những chủ trương đúng đắn cho việc giải quyết vấn đề quyền con người trong thời gian tới. Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ gửi tới một số thông tin liên quan đến quyền con người trong văn kiện đại hội XIII của Đảng. 

Quyền con người trong văn kiện đại hội XIII

1. Quyền con người là gì ? 

Quyền con người (Human rights, Droits de L’Homme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

Quyền con người không những được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal right). Theo đó:

Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

2. Đặc điểm của quyền con người. 

Quyền con người có một số đặc điểm sau:

  • Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ quyền con người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;
  • Tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, truyền thống văn hoá, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội;
  • Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người. Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con người gắn liền với nhà nước và pháp luật – là những sự kiện mang tính giai cấp sâu sắc. Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyển và nội dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người tj nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ theo thủ tục tố tụng hình sự… Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là quyển của cá nhân. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyển dân sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (quyền sở hữu, quyền công tác, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hoá…).

Quyền con người được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.

Ở nước ta, quyền con người được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ tuật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, các luật về bầu cử, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… Những nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người bao gồm:

  • Nguyên tắc dân tộc tự quyết – nguyên tắc nền tảng, vì một dân tộc không có quyền tự quyết thì không thể nói đến quyền con người của từng cá nhân thành viên của dân tộc đó;
  • Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 quy định “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội…,
  • Nguyên tắc bình đẳng giới – nguyên tác đã được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội..;
  • Nguyên tắc cấm hồi tố trong luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 4999, theo đó sẽ không áp dụng một điều luật hay quy định về một tội danh mới, hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới, hoặc hạn chế phạm vi áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

3. Quyền con người trong văn kiện đại hội XIII của Đảng. 

Gán quyền con người với sự phát triển phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc

Thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) không chỉ thể hiện ở mục tiêu bảo đảm quyền lực của dân, do dân, vì dân, mà còn phải được thể chế hóa thành phương tiện, công cụ để đạt được mục tiêu đó một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn. Văn kiện xác định: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”. Bằng cách tiếp cận dựa trên quyền của người dân như vậy, mới có thể đưa thực tiễn triển khai, thực hiện công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN và thể chế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn. 

Bởi lẽ, trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần, khu vực kinh tế và phân hóa giàu nghèo, phân hóa xã hội theo cơ chế thị trường hội nhập quốc tế như hiện nay, chủ trương, chính sách, pháp luật chỉ có thể nhắm được vào một thành phần, khu vực kinh tế hay một giai tầng xã hội, mà rất khó bao phủ được toàn bộ các thành phần, khu vực kinh tế và các giai tầng xã hội. Vì thế, mỗi chủ trương, chính sách, pháp luật chỉ có thể được lựa chọn, xác định chính xác và triển khai, thực hiện một cách hiệu lực, hiệu quả trên thực tiễn khi: (i) Xuất phát và nhắm đến đúng thành phần kinh tế hay giai tầng xã hội cần được thụ hưởng quyền lợi; (ii) Phân rõ chủ thể được bảo đảm quyền lợi và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền lợi; (iii) Lôi cuốn và huy động được sự tham gia chủ động, tích cực, đông đảo của người dân vào việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật; (iv) Bảo đảm sự công khai, minh bạch trong triển khai, thực hiện. Đây chính là các tiêu chí của cách tiếp cận dựa trên quyền con người và là công cụ hay phương tiện nhất thiết cần phải có trong “nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” theo yêu cầu của Đại hội XIII đã đặt ra.

Chú trọng tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ những quyền mới phát sinh trong bảo đảm quyền lực của nhân dân, như: quyền an ninh, an toàn thông tin mạng, quyền mua bán, kinh doanh trên nền tảng in-tơ-nét, quyền giáo dục, sinh hoạt tôn giáo, văn hóa trực tuyến, quyền bí mật đời tư, quyền về thân thể, danh dự, nhân phẩm của trẻ em, quyền của những người lao động di cư,… Đồng thời cũng nắm bắt, điều tiết những thách thức đang đặt ra ngày càng lớn hơn đối với việc ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ các quyền mới nêu trên.

Lấy con người làm trung tâm và phát triển con người toàn diện

Văn kiện khẳng định: Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Vì vậy, khi triển khai thực hiện Nghị quyết, phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, bồi dưỡng, phát huy sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Đồng thời, mục tiêu phát triển con người toàn diện đương nhiên phải xuất phát từ con người và “lấy con người làm trung tâm”. Nhưng nếu không bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như đã được thể chế trong Hiến pháp năm 2013, thì con người không thể chủ động, tích cực tham gia vào các công việc nhà nước và xã hội với tư cách là người là chủ – làm chủ. Do đó, bảo đảm quyền con người phải là khâu kết nối cần thiết, không thể thiếu giữa khâu lấy con người làm trung tâm và phát triển con người toàn diện.

Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, gắn quyền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân

Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ…, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực của nhân dân trong điều kiện thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ là làm chủ tập thể, mà trước tiên và cơ bản là làm chủ bản thân. Cho nên, trong phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, không chỉ chú trọng xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của Nhà nước, mà đồng thời phải chú ý đúng mức đến việc xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của con người, của công dân trong tổng thể các quan hệ nền tảng và có tính bình đẳng với thể chế pháp quyền của Nhà nước.

Nếu không chú ý xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế pháp quyền như vậy trong Nhà nước pháp quyền XHCN thì xã hội sẽ đôi khi có khi quan hệ lệch lạc ở tính “cộng đồng – tình nghĩa”, “cá nhân – cá thể” theo kiểu “lợi ích nhóm” và tính bao cấp. Vì vậy, trong việc tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thực hành dân chủ trên thực tiễn, phải coi trọng việc bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy thể chế pháp quyền có tính bình đẳng của con người, của công dân và của Nhà nước trong thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung ở Việt Nam.

An ninh con người, an ninh quốc gia gắn với quyền con người

Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Bảo đảm an ninh sinh thái, an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng”. “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”; “giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng”…

Triển khai thực hiện những chủ trương này chính là thúc đẩy tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ an ninh con người gắn với quyền con người và an ninh quốc gia, trên 7 phương diện: an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị.

Coi trọng công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài

Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh…” trong quá trình tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả hội nhập quốc tế. Hiện nay, cần tăng cường thực hiện Luật Người Việt Nam đi công tác ở nước ngoài theo hợp đồng, Bộ luật Lao động năm 2019, tạo khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh thúc đẩy việc bảo vệ quyền của người lao động Việt Nam đi công tác ở nước ngoài theo tiêu chuẩn quốc tế.

Việc tăng cường công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài là nhằm bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, góp phần nâng cao vị thế chính trị, uy tín của Nhà nước ta đối với thế giới; từ đó, khuyến khích, động viên ngày càng nhiều sự đóng góp của kiều bào trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.    

Hoạt động tư pháp phải bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân

Trong bối cảnh các vụ án thuộc lĩnh vực dân sự, hôn nhân, gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại (gọi chung là vụ việc dân sự) ngày càng tăng về số lượng với tính chất ngày càng phức tạp, gay gắt thì cần thúc đẩy thực hiện hòa giải, đối thoại tại tòa án theo Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án (tháng 6-2020). Đồng thời phải xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị – xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân. Trong việc nghiên cứu, ban hành Chiến lược tư pháp, cải cách tư pháp gắn với “nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, cần phải chú trọng tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, đơn vị điều tra, đơn vị thi hành án và các đơn vị, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.

Đẩy mạnh đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng và chế độ xã hội XHCN

Đại hội Đảng XIII chủ trương: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động gửi tới thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống “diến biến hòa bình”, thông tin xấu, độc trên in tơ nét và mạng xã hội.” Cần nhấn mạnh rằng, trong điều kiện chế độ XHCN với sự cầm quyền của Đảng, mục tiêu và bản chất của đấu tranh và đối thoại trên lĩnh vực quyền con người, trước tiên và chủ yếu là nhằm thực hiện, phát huy nền dân chủ XHCN trong nhân dân. Từ đó cảm hóa, cô lập, làm thất bại hoàn toàn các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Trong quá trình đó, phải tăng cường thực hiện phương thức trong đấu tranh có đối thoại, để tiến hành trao đổi, thương lượng một cách bình đẳng giữa những người tham gia đối thoại trên cơ sở pháp lý nhất định, hướng đến một chủ đề cụ thể, nhằm nhận thức sâu thêm về nhau và đạt tới một chân lý cao hơn cho cả hai bên, hoặc tiến đến giải quyết được một vấn đề nhất định, liên quan đến danh dự, nhân phẩm hay quyền lợi cụ thể của các bên. Trong đấu tranh cần phải chủ động, tích cực nhận diện, phê phán, phản bác, bác bỏ, ngăn chặn, xử lý công khai, minh bạch bằng pháp luật nhằm kiên quyết làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn sử dụng dân chủ, nhân quyền như một công cụ chống phá chế độ chính trị – xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Trong hội nhập quốc tế, nguyên tắc trong đấu tranh có đối thoại là để nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những sự hiểu biết khác nhau, nhất là giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề dân chủ, nhân quyền. Thông qua đó tích cực chuyển từ tham dự sang chủ động tham gia đóng góp hoặc tham gia kiến tạo thể chế hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người vốn có nhiều khác biệt về quan điểm. Qua đó chủ động tạo điều kiện và vị thế ở tầm cao hơn cho Việt Nam trong việc kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia – dân tộc và đấu tranh ngăn chặn hiệu quả với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Trên đây là nội dung nội dung trình bày của Luật LVN Group về “Quyền con người trong văn kiện đại hội XIII của Đảng”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý bạn đọc có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian cân nhắc nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com