Quyền con người và dân chủ được thể hiện như thế nào ?

Dân chủ, nhân quyền là phạm trù chính trị, pháp lý, lịch sử, văn hóa, xã hội gắn liền với mỗi hình thái kinh tế – xã hội, với mỗi chế độ chính trị và mỗi quốc gia khác nhau, nên có nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau về các phạm trù này. Do đó, cần phải hiểu đúng về dân chủ, nhân quyền để kiên quyết đấu tranh với việc áp đặt quan điểm, tư tưởng về dân chủ, nhân quyền của quốc gia này đối với quốc gia khác, cũng như việc lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam. Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ gửi tới một số thông tin liên quan đến quyền con người và dân chủ. 

Quyền con người và dân chủ

1. Quyền con người là gì ? 

Quyền con người (Human rights, Droits de L’Homme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

Quyền con người không những được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal right). Theo đó:

Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

2. Đặc điểm của quyền con người. 

Quyền con người có một số đặc điểm sau:

  • Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ quyền con người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;
  • Tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, truyền thống văn hoá, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội;
  • Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người. Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con người gắn liền với nhà nước và pháp luật – là những sự kiện mang tính giai cấp sâu sắc. Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyền và nội dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người tị nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ theo thủ tục tố tụng hình sự… Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là quyển của cá nhân. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyền dân sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (quyền sở hữu, quyền công tác, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hoá…).

Quyền con người được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.

Ở nước ta, quyền con người được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, các luật về bầu cử, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… Những nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người bao gồm:

  • Nguyên tắc dân tộc tự quyết – nguyên tắc nền tảng, vì một dân tộc không có quyền tự quyết thì không thể nói đến quyền con người của từng cá nhân thành viên của dân tộc đó;
  • Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 quy định “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội…,
  • Nguyên tắc bình đẳng giới – nguyên tác đã được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội..;
  • Nguyên tắc cấm hồi tố trong luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 4999, theo đó sẽ không áp dụng một điều luật hay quy định về một tội danh mới, hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới, hoặc hạn chế phạm vi áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

3. Quyền dân chủ là gì ? 

Dân chủ là cách thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do và quyền con người.

Quyền dân chủ chính là những yêu sách, nhu cầu nội tại của mỗi cá nhân, với tư cách là công dân đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực pháp lý dân chủ trong một thiết chế xã hội dân chủ nhằm bảo đảm sự tham gia một cách tự do, bình đẳng và trọn vẹn vào các công việc của Nhà nước và toàn bộ đời sống xã hội của con người.

Quyền dân chủ thực chất chính là yêu sách về bình đẳng chính trị và xã hội của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với Nhà nước, bảo đảm cho cá nhân khả năng hành động theo ý mình, cho sự tự quyết định và làm chủ ý chí của mình mà không có hại cho người khác, và do đó cho khả năng giải phóng toàn diện những năng lực bản chất người của mỗi cá nhân.

4. Nguyên tắc đảm bảo thực thi dân chủ. 

Nguyên tắc nền tảng của việc thực thi và bảo đảm dân chủ đó là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Từ mục đích như vậy, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu này. Tổng thể các biện pháp này tạo ra một cơ chế hữu hiệu và duy nhất cho việc bảo đảm và thực thi quyền dân chủ rộng rãi trong xã hội. Chẳng hạn, nếu dân không được biết, không được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật, vào công việc của Nhà nước nghĩa là dân đã không được bảo đảm các quyền chính trị của mình. Dân không “biết”, dân sẽ không thể “bàn” được, và do đó sẽ không “làm” được và không thể “kiểm tra” được quá trình hay công việc đó.

5. Mối quan hệ giữa quyền con người và dân chủ. 

Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948 (Điều 21)

  1. Mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các uỷ quyền mà họ tự do lựa chọn.
  2. Mọi người đều có quyền được tiếp cận các đơn vị công quyền ở nước mình một cách bình đẳng.
  3. Ý chí của nhân dân phải là cơ sở tạo nên quyền lực của chính quyền; ý chí đó phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và chân thực, được tổ chức theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do tương tự.

Chương trình Nghị sự để dân chủ hóa của Liên hợp quốc, 1995

  1. Dân chủ hóa là một tiến trình đi đến một xã hội cởi mở hơn, có nhiều sự tham gia hơn và ít độc đoán hơn. Dân chủ là một hệ thống chính quyền bao hàm, trong nhiều thể chế và cơ chế, tư tưởng quyền lực chính trị dựa trên ý nguyện của nhân dân.

Văn kiện cuối cùng Hội nghị Thượng đỉnh thế giới, 2005

  1. Chúng tôi tái khẳng định rằng dân chủ là một giá trị phổ quát dựa trên ý chí của nhân dân được tự do bày tỏ để quyết định hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của riêng họ và tham gia trọn vẹn của họ vào mọi khía cạnh đời sống. Chúng tôi cũng tái khẳng định rằng trong khi dân chủ có những đặc điểm chung, không có một khuôn mẫu dân chủ nào, rằng dân chủ không thuộc về bất kỳ quốc gia hoặc khu vực nào, và tái khẳng định sự cần thiết của sự quan tâm trọn vẹn đến chủ quyền và quyền tự quyết. Chúng tôi nhấn mạnh rằng dân chủ, phát triển và tôn trọng mọi quyền con người, tự do cơ bản là phụ thuộc và củng cố nhau lẫn nhau.

Nghị quyết của Liên hợp quốc về hỗ trợ các chính phủ thúc đẩy và củng cố các nền dân chủ mới hoặc được khôi phục, 2006

Lưu tâm đến mối liên hệ không thể tách rời giữa các nguyên tắc được ghi trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền và các nền tảng của bất kỳ xã hội dân chủ nào. Thừa nhận rằng các quyền con người, pháp quyền và dân chủ liên hệ chặt chẽ và củng cố lẫn nhau, chúng đều thuộc về các giá trị cốt lõi phổ quát và không thể tách rời, thuộc về các nguyên tắc của Liên hợp quốc.

Trên đây là nội dung nội dung trình bày của Luật LVN Group về “Quyền con người và dân chủ được thể hiện thế nào ?”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý bạn đọc có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian cân nhắc nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com