Quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 

Khi quyền con người bị xâm phạm bởi các hành vi sai trái do người thi hành công vụ gây ra thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường, khắc phục những sai trái đó. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (TNBTCNN) đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 trong việc bảo vệ quyền con người. Vấn đề quyền con người trong Luật TNBTCNN năm 2017 được khái quát hai nội dung lớn: (1). Nhà nước có trách nhiệm bồi thường tổn thất về vật chất, sức khỏe, tinh thần và các quyền và lợi ích khác theo hướng dẫn của pháp luật cho người bị tổn hại; (2) Phục hồi danh dự. Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ gửi tới một số thông tin liên quan đến vấn đề quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017. 

Quyền con người về kinh tế văn hóa xã hội

1. Quyền con người là gì ? 

Quyền con người (Human rights, Droits de L’Homme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

Quyền con người không những được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal right). Theo đó:

Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

2. Đặc điểm của quyền con người. 

Quyền con người có một số đặc điểm sau:

  • Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ quyền con người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;
  • Tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, truyền thống văn hoá, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội;
  • Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người. Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con người gắn liền với nhà nước và pháp luật – là những sự kiện mang tính giai cấp sâu sắc. Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyển và nội dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người tj nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ theo thủ tục tố tụng hình sự… Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là quyển của cá nhân. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyển dân sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (quyền sở hữu, quyền công tác, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hoá…).

Quyền con người được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.

Ở nước ta, quyền con người được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ tuật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, các luật về bầu cử, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… Những nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người bao gồm:

  • Nguyên tắc dân tộc tự quyết – nguyên tắc nền tảng, vì một dân tộc không có quyền tự quyết thì không thể nói đến quyền con người của từng cá nhân thành viên của dân tộc đó;
  • Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 quy định “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội…,
  • Nguyên tắc bình đẳng giới – nguyên tác đã được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội..;
  • Nguyên tắc cấm hồi tố trong luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 4999, theo đó sẽ không áp dụng một điều luật hay quy định về một tội danh mới, hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới, hoặc hạn chế phạm vi áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

3. Quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội trong Luật Trách nhiệm bồi thường.

Về quyền bình đẳng

Điều 7 UDHR quy định “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị” và Điều 3 ICCPR quy định các quốc gia thành viên cam kết đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ đối với mọi quyền kinh tế, xã hội và văn hoá mà Công ước quy định.Xuyên suốt các quy định của Luật TNBTCNN 2017 đều quy định người bị tổn hại, không phân biệt nam nữ hay giới tính, kể cả người thành niên hay chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hay hạn chế năng lực hành vi dân sự, v.v. đều có quyền được yêu cầu bồi thường và được giải quyết yêu cầu bồi thường miễn sao đáp ứng đủ các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định tại Điều 7 Luật TNBTCNN 2017. Quy định này cũng được hiểu là không chỉ công dân của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới được bồi thường mà còn được áp dụng đối với người nước ngoài. Theo đó, các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước bao gồm: (i) có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây tổn hại và yêu cầu bồi thường tương ứng quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật; (ii) có tổn hại thực tiễn của người bị tổn hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo hướng dẫn của Luật này; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa tổn hại thực tiễn và hành vi gây tổn hại.

Về quyền sở hữu tài sản

Điều 17 UDHR quy định “mọi người đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình hoặc tài sản sở hữu chung với người khác. Không ai bị tước đoạt tài sản một cách tuỳ tiện”. Bên cạnh đó, Điều 2 ICESCR quy định “mỗi quốc gia thành viên Công ước này cam kết sẽ tiến hành các biện pháp, một cách riêng rẽ và thông qua sự hợp tác giúp đỡ quốc tế, đặc biệt là các biện pháp kinh tế và kỹ thuật, sử dụng tới mức tối đa các tài nguyên sẵn có của mình, nhằm đạt được việc bảo đảm ngày càng trọn vẹn các quyền được thừa nhận trong Công ước này bằng mọi biện pháp thích hợp, đặc biệt kể cả việc thông qua những biện pháp lập pháp.Các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm rằng các quyền được nêu trong Công ước này sẽ được thực hiện không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác.Các quốc gia đang phát triển có thể quyết định mức độ đảm bảo các quyền kinh tế mà đã được ghi nhận trong Công ước này cho những người không phải là công dân của họ, có xem xét thích đáng đến các quyền con người và nền kinh tế quốc dân của mình”. Vì vậy, khác so với yêu cầu đặt ra đối với Nhà nước trong ICCPR, đối với các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, yêu cầu Nhà nước căn cứ vào biện pháp kinh tế và kỹ thuật, các tài nguyên sẵn có của mình bảo đảm ngày càng trọn vẹn các quyền – nói cách khác việc bảo đảm thực hiện quyền này có lộ trình (trong khi đó, để thực hiện các quyền dân sự, chính trị, yêu cầu Nhà nước phải thực hiện ngay thông qua các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác).

Để ghi nhận quyền sở hữu tài sản trong lĩnh vực bồi thường nhà nước, Nhà nước đã ghi nhận trách nhiệm trong việc trả lại tài sản cho người bị tổn hại. Căn cứ, khoản 1 Điều 30 Luật TNBTCNN 2017 quy định tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu trái pháp luật phải được trả lại ngay khi quyết định thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu bị hủy bỏ. Và đặc biệt, so với pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật TNBTCNN 2017 đã bổ sung nhiều loại tổn hại được bồi thường, tăng mức bồi thường tổn hại về tinh thần đối với một số trường hợp, lương hóa một số loại tổn hại về vật chất [3], ví dụ, Điều 23 Luật quy định về tổn hại do tài sản bị xâm phạm. Theo đó, trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất thì tổn hại được xác định căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật, tác dụng và mức độ hao mòn của tài sản trên thị trường tại thời gian quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật TNBTCNN 2017. Thời điểm để xác định hiện trạng tài sản làm căn cứ tính mức bồi thường là thời gian tổn hại xảy ra. Trường hợp tài sản bị hư hỏng thì tổn hại được xác định là chi phí có liên quan theo giá thị trường tại thời gian quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật TNBTCNN 2017 để sửa chữa, khôi phục lại tài sản; v.v. Mặt khác, Luật không chỉ để bảo đảm quyền và lợi ích cho đối tượng hại là cá nhân, mà còn quy định về việc bồi thường tổn hại đối với tổ chức, được thể hiện tại Điều 2 về đối tượng được bồi thường. Theo đó, người bị tổn hại là cá nhân, tổ chức bị tổn hại về vật chất, tổn hại về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định tại Luật TNBTCNN 2017.

Về quyền được trả lương,

Khoản 2 Điều 23 UDHR quy định “Người công tác được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác”; điểm i khoản 1 Điều 7 ICESCR quy định “tiền lương thoả đáng và tiền công bằng nhau cho những công việc có giá trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào … được trả công ngang nhau đối với những công việc giống nhau”. Người bị tổn hại đáng lẽ công tác để bảo đảm cuộc sống cho bản thân và gia đình, tuy nhiên, vì hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ mà cản trở người bị tổn hại thực hiện quyền công tác và được trả lương của mình, tương tự đối với tổ chức, vì hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ mà ảnh hưởng đến thu nhập doanh nghiệp. Vì vậy, Điều 24 Luật TNBTCNN 2017 quy định cụ thể trường hợp thu nhập thực tiễn của người bị tổn hại là cá nhân và thu nhập thực tiễn của người bị tổn hại là tổ chức. Đồng thời, để bảo đảm nguyên tắc “trả lương tương xứng và công bằng” như đã được đề cập trong khoản 2 Điều 23 UDHR, khoản 1 Điều 24 Luật TNBTCNN 2017 đã phân loại các trường hợp có thu nhập ổn định từ tiền lương, tiền công; thu nhập không ổn định từ tiền lương, tiền công và thu nhập không ổn định theo mùa vụ của người bị tổn hại là cá nhân làm căn cứ xác định mức tổn hại được bồi thường. Việc phân loại các loại thu nhập để tính tổn hại được bồi thường theo hướng dẫn của Luật TNBTCNN 2017 đã thể hiện rõ nguyên tắc “tương xứng, công bằng” với tổn hại bị xâm phạm của người bị tổn hại và phù hợp với các điều ước quốc tế.

Quyền được chăm sóc y tế, sức khỏe 

Khoản 1 Điều 25 UDHR quy định ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình kể cả y tế và những dịch vụ cần thiết. Điều 12 ICESCR ghi nhận các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được hưởng một tiêu chuẩn sức khoẻ về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể được. Nội luật hóa quy định này, tại các điều 20, 38 và 58 Hiến pháp 2013 đã ghi nhận quyền và trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm sóc sức khỏe của con người. Để thực hiện quy định này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có Luật TNBTCNN 2017. Theo đó, Điều 26 Luật TNBTCNN 2017 quy định về tổn hại Nhà nước bồi thường do sức khỏe bị xâm phạm, gồm các chi phí khám bệnh, chữa bệnh; chi phí bồi dưỡng sức khỏe; chi phí cho người chăm sóc người bị tổn hại trong thời gian khám bệnh, chữa bệnh và trong trường hợp người bị tổn hại mất khả năng lao động v.v.

4. Lưu ý trong quá trình áp dụng các quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước để thực hiện nghĩa vụ của Nhà nước đối với quyền con người. 

Theo Luật quốc tế về quyền con người, các Nhà nước – chủ thể cơ bản, có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy thực thi quyền con người nói chung và trong lĩnh vực bồi thường nhà nước nói riêng. Nói cách khác, Nhà nước hay cụ thể hơn là Chính phủ, các đơn vị nhà nước, cùng các công chức, viên chức của Nhà nước đóng vai trò cần thiết trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy việc thực thi quyền con người trong thực tiễn. Luật TNBTCNN 2017 đã được sửa đổi bổ sung với nhiều quy định có để bảo đảm quyền cho người bị tổn hại như đã phân tích ở trên; đồng thời cũng ghi nhận trách nhiệm của người thi hành công vụ gây tổn hại (Điều 14), đơn vị giải quyết bồi thường (Điều 15), trách nhiệm của các đơn vị nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước (Chương VIII). Tuy nhiên, để bảo đảm các quy định này có thể “đi vào cuộc sống”, cần sự phối hợp thực hiện từ các đơn vị, tổ chức và cá nhân, trong đó, đặc biệt cần thiết về phía đơn vị nhà nước. Căn cứ vào các nghĩa vụ mà Nhà nước phải thực hiện theo Luật nhân quyền quốc tế, có thể xác định một số nhiệm vụ như sau để bảo đảm hiệu quả thi hành Luật:

Thứ nhất, về chức năng “tôn trọng”:Luật TNBTCNN 2017 được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2017 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV ghi nhận rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân, người bị tổn hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra. Luật được ban hành thể hiện rõ sự “tôn trọng” của Nhà nước, thể hiện vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân.

Thứ hai, về chức năng “bảo vệ và bảo đảm”: các đơn vị nhà nước, công chức thực hiện công tác bồi thường nhà nước cần: (i) căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình kịp thời phát hiện và tổ chức kiểm tra các vụ việc khó phức tạp mới phát sinh; (ii) theo dõi để đôn đốc các vụ việc chưa được giải quyết kịp thời; (iii) nghiên cứu và kịp thời tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành văn bản để nâng cao hiệu quả thi hành các quy định của Luật (ví dụ như Quy chế phối hợp hay Bộ tiêu chí đánh giá v.v.); (iv) kiến nghị đơn vị có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc giải quyết bồi thường, thực hiện trách nhiệm hoàn trả theo hướng dẫn của pháp luật v.v.

Thứ ba, về chức năng “thúc đẩy thực thi”: để thực hiện chức năng này, các đơn vị nhà nước cần: (i) căn cứ vào sự phân công, phân cấp nhiệm vụ, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến các đối tượng chịu tác động với cách thức phong phú, đa dạng và nội dung chính xác, trọn vẹn; (ii) hướng dẫn hỗ trợ người yêu cầu bồi thường nói chung và người bị tổn hại nói riêng thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình được kịp thời, hiệu quả; (iii) nâng cao chất lượng tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức thực hiện công tác bồi thường nhà nước để khi phát sinh vụ việc, thực hiện việc giải quyết yêu cầu bồi thường theo đúng thời hạn quy định; (iv) nắm bắt để phản ứng kịp thời với những hạn chế, bất cập phát sinh trong thực tiễn thi hành; (v) xây dựng và vận hành có hiệu quả cơ sở dữ liệu về công tác bồi thường nhà nước qua đó kịp thời tương tác với người yêu cầu bồi thường và xã hội về các vụ việc phát sinh. 

Trên đây là nội dung nội dung trình bày của Luật LVN Group về “Quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý bạn đọc có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian cân nhắc nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com