Quyền của phụ nữ trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Các quyền cơ bản của phụ nữ được cụ thể hóa trong Hiến pháp 2013 Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động, Luật Bình đẳng giới, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Cư trú, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình… Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ gửi tới một số thông tin liên quan đến quyền của phụ nữ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. 

Quyền của phụ nữ trong hệ thống pháp luật Việt Nam

1. Quyền của phụ nữ là gì ? 

Trên cơ sở khái niệm quyền con người, khái niệm quyền phụ nữ phải được nghiên cứu trong mối quan hệ khăng khít với con người. Quyền phụ nữ là khái niệm dùng để chỉ quyền con người của phụ nữ. Đó là những quyền tất yếu, không bị tước bỏ bởi bất cứ ai, bất cứ chính thể nào. Là quyền con người cụ thể, quyền phụ nữ cũng hàm chứa những đặc tính cơ bản của quyền con người đó là tính phổ quát, tính đặc thù và tính giai cấp. Tuy nhiên, người phụ nữ với những đặc điểm gắn liền với giới tính tự nhiên thì ngoài quyền con người nói chung, họ còn có những quyền gắn liền với thiên chức của mình như quyền làm mẹ, quyền được bảo vệ với tư cách là nhóm người dễ bị tổn thương. Do đó việc xác định và ghi nhận các quyền con người cho họ đặc biệt và bảo đảm trên cơ sở tiêu chí bình đẳng cần thiết. Dưới góc độ pháp lý, quyền phụ nữ còn được hiểu là: tập hợp những khả năng pháp luật mỗi quốc gia công nhận cho người phụ nữ được hưởng, được làm và được đòi hỏi. 

Khi tiếp cận khái niệm quyền của phụ nữ, quyền con người được hiểu theo nghĩa xác định hơn, nó phản ánh những quyền cụ thể của một đối tượng cụ thể. Quyền của phụ nữ được quy định trong pháp luật luôn có sự xem xét những yếu tố về tâm sinh lý của giới nữ, quan điểm về thuần phong mỹ tục, về văn hoá của một dân tộc để xây dựng nên một khung quy tắc về hành vi ứng xử quan hệ giao tiếp giữa người nam và nữ, sao cho vừa thể hiện lối sống bình đẳng, văn minh đẳng văn minh đồng thời vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, tránh xảy ra sự xung đột và biến đổi xã hội gay gắt. Do đó quyền của phụ nữ không chỉ được hiểu đơn thuần như quyền con người nhưng cũng không thể tách rời quyền con người. 

Xuất phát từ thực tiễn thực hiện các quyền của phụ nữ hiện nay mà cuộc đấu tranh cho quyền con người nói chung còn nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có sự phát huy sức mạnh và sự phối hợp trách nhiệm của cả cộng đồng. Đã có nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người nhưng quyền của phụ nữ vẫn là mục tiêu phấn đấu của không chỉ mỗi quốc gia mà còn của cả nhân loại. Mỗi quốc gia sẽ xây dựng những quy phạm pháp luật riêng để bảo vệ quyền cho phụ nữ. Có như vậy người phụ nữ mới thực sự được bình đẳng, được bảo vệ và có điều kiện phát triển.

2. Quy định về quyền của phụ nữ trong pháp luật Việt Nam. 

Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới (Hiến pháp năm 1946) đã khẳng định: “Tất cả quyền lực trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, nam nữ, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo… phụ nữ bình đẳng với nam giới trên về phương diện”. Bình đẳng nam nữ từ đó là một trong những nguyên tắc hiến định xuyên suốt trong tất cả các Hiến pháp về sau (năm 1959, 1980 và 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001) của Việt Nam.

Việt Nam thuộc vào nhóm quốc gia sớm tham gia CEDAW (vào ngày 18-12-1982) và đã đạt được nhiều thành tựu trong việc thực hiện Công ước này. Hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam về bình đẳng giới và quyền của phụ nữ bao gồm nhiều văn bản ở nhiều cấp độ, liên quan đến nhiều lĩnh vực; tuy nhiên, các văn bản cần thiết nhất là Hiến pháp 1992, Luật HN&GĐ năm 2000, Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007.

Pháp luật Việt Nam luôn thể hiện sự quan tâm và bảo vệ cho quyền và lợi ích của người phụ nữ trong đời sống gia đình. Căn cứ, trong bản Hiến pháp năm 1946 quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện. Tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử”.

Mới nhất là Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.

Mặt khác, trong Luật Bình đẳng giới năm 2006 với mục tiêu: “Xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”.

Tại Điều 18 Luật Bình đẳng giới quy định như sau: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình; Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình; Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo hướng dẫn của pháp luật; Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển; Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình”.

Trong khi đó, tại Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình quy định như sau: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật có liên quan”.

Vì vậy, nhà nước ta rất quan tâm tới việc ghi nhận và bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ. Ngày từ đời sống gia đình, người phụ nữ được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Đây là tiền đề cho sự phát triển hơn nữa quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội và từ đó xây dựng một xã hội bình đẳng giới.

Hay như Bộ luật Lao động có hẳn một chương quy định về lao động nữ. Theo đó, Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền công tác bình đẳng của lao động nữ; khuyến khích người sử dụng lao động, tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ công tác theo thời gian biểu linh hoạt, công tác không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà; có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp…

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành đảm bảo phụ nữ được hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp, mất sức lao động. Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai (nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp); nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ bằng 100% tiền lương; dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khỏe yếu.

Đặc biệt, trong Bộ luật Hình sự hiện hành còn thể hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong xử lý tội phạm là nữ: Người phạm tội là phụ nữ có thai được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử; không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi…

3. Quyền được bình đẳng giới. 

Điều 15, điều 16 Hiến pháp quy định: Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều 26  Hiến pháp cũng quy định:  Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.

Luật Bình đẳng giới nêu, bình đẳng giới là  xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình

Nhà nước bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình:

  1. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển. 
  2. Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình. 
  3. Áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục, tập cửa hàng lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
  4. Khuyến khích đơn vị, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới.
  5. Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để tăng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.

4. Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, đời tư, thân thể, uy tín. 

Hiến pháp năm 2013 quy định rõ:

Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.

Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ cách thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.

Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo hướng dẫn của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ cách thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.

Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.

Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác.

Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các cách thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.

5. Quyền được tự do kết hôn, chế độ hôn nhân gia đình. 

Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.

Pháp luật hôn nhân và gia đình khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của mình; vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ sống chung với nhau…

6. Quyền được bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị. 

Tương ứng với nội dung của các Điều 7,8 CEDAW, Điều 63 Hiến pháp 1992 nêu rõ: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”.

Thể chế hóa quy định kể trên của Hiến pháp, Điều 11 Luật bình đẳng giới năm 2006 khẳng định, phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong những lĩnh vực và vấn đề cụ thể như: (i) Tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội; (ii) Tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của đơn vị, tổ chức; (iii) Tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc Hội, đại biểu HĐND, vào đơn vị lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; (iv) Tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của đơn vị, tổ chức. Điều này đồng thời nêu ra hai biện pháp cơ bản nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, đó là: (i) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc Hội, đại biểu HĐND; và (ii) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong đơn vị nhà nước.

Liên quan đến biện pháp thứ nhất, Luật bầu cử ĐBQH năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định số đại biểu Quốc Hội là nữ sẽ do Uỷ ban thường vụ Quốc Hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPNVN, nhằm bảo đảm để phụ nữ có số đại biểu thích đáng trong Quốc Hội (Điều 10). Luật bầu cử ĐBHĐND năm 2003 cũng quy định, thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu HĐND, trong đó đảm bảo số lượng thích đáng đại biểu HĐND là phụ nữ (Điều 14).

Liên quan đến biện pháp thứ hai, Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung các năm 2000 và 2003) trước đây và sau này được thay thế bằng Luật cán bộ, công chức năm 2008 đã khẳng định nguyên tắc không phân biệt đối xử trong tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, nâng ngạch, khen thưởng và chế độ đối xử giữa cán bộ, công chức nữ và nam trong các đơn vị quản lý Nhà nước các cấp cũng như các đơn vị sự nghiệp. Nghị định số 117/NĐ-CP ngày 10-10-2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị nhà nước quy định tuổi dự tuyển đối với cả nam và nữ là như nhau (đều từ đủ 18 đến 40 tuổi, trước đây quy định đối với nữ là từ 18 đến 35 tuổi).

Mặt khác, để bảo đảm sự tuân thủ các quy định về quyền bình đẳng về chính trị của phụ nữ trên thực tiễn, Điều 40 Luật bình đẳng giới năm 2006 đề cập các hành vi bị coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong nhiều lĩnh vực mà sẽ bị trừng phạt, trong đó, các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm: (i) Cản trở việc nam hoặc nữ tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc Hội, đại biểu HĐND, vào đơn vị lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp vì định kiến giới; (ii) Không thực hiện hoặc cản trở việc bổ nhiệm nam, nữ vào cương vị quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới; (iii) Đặt ra và thực hiện quy định có sự phân biệt đối xử về giới trong các hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc trong quy định, quy chế của đơn vị, tổ chức.

7. Quyền được bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế. 

Tương ứng với nội dung của Điều 15 CEDAW, Điều 63 Hi ến pháp 1992 quy định phụ nữ bình đẳng với nam giới về phương diện kinh tế.

Căn cứ hóa quy định trên của Hi ến pháp, Điều 12 Luật bình đẳng giới năm 2006 nêu rõ, nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động. Điều này cũng nêu ra hai biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm: (i) Ưu đãi về thuế và tài chính cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ; (ii) Hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cho lao động nữ khu vực nông thôn .

Cũng liên quan đến vấn đề trên, một số quy định pháp luật trước đây gây trở ngại cho việc bảo đảm quyền bình đẳng về kinh tế của phụ nữ nay đã được sửa đổi. Ví dụ, Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03-10-2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HNGĐ quy định, bắt đầu từ ngày 18-10-2001, tất cả các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng kể cả đất canh tác và nhà ở khi đăng ký quyền sở hữu đều phải ghi tên của cả vợ và chồng; còn đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước đây đã cấp chỉ ghi tên chủ hộ, khi hộ gia đình thực hiện các quyền hoặc hộ gia đình có nhu cầu thì đơn vị Nhà nước có thẩm quyền sẽ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới ghi cả tên vợ và tên chồng. Điều 48 Luật đất đai năm 2003 cũng quy định, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng trong trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ và chồng… Những sửa đổi, bổ sung như vậy bảo đảm quyền lợi cho người vợ được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở – những tài sản có ý nghĩa thiết yếu với hoạt động kinh tế – cùng với người chồng.

Mặt khác, để bảo vệ quyền bình đẳng về kinh tế của phụ nữ, BLDS năm 2005 quy định, các giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu nếu một trong các bên tham gia giao dịch lấy lý do khác biệt về giới tính để cưỡng ép phụ nữ phải ký kết hợp đồng, phải tham gia vào các giao dịch hoặc lợi dụng các trường hợp khó khăn của phụ  ữ buộc họ phải tham gia vào giao dịch dân sự. Để bảo đảm sự tuân thủ trên thực tiễn, các quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, Điều 40 Luật bình đẳng giới năm 2006 xác định những hành vi cụ thể bị coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, bao gồm: (i) Cản trở nam hoặc nữ thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động kinh doanh vì định kiến giới; (ii) Tiến hành quảng cáo thương mại gây bất lợi cho các chủ doanh nghiệp, thương nhân của một giới nhất định.

Trên đây là nội dung nội dung trình bày của Luật LVN Group về “Quyền của phụ nữ trong hệ thống pháp luật Việt Nam”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý bạn đọc có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian cân nhắc nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com