Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Điều 184 BLTTDS

Hiện nay, việc xác định đúng thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là một trong những yếu tố vô cùng cần thiết trong hoạt động tố tụng dân sự tại đơn vị Nhà nước có thẩm quyền cũng như trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án của Viện kiểm sát, giúp các đương sự bảo vệ được các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình. Đã xảy ra không ít vụ án đã bị đình chỉ chỉ vì lý do hết thời hiệu khởi kiện. Chính bởi vì thế mà việc các chủ thể nắm rõ các quy định cụ thể về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là một điều vô cùng cần thiết. Bài viết dưới đây Luật LVN Group sẽ giúp người đọc nghiên cứu quy định về Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Điều 184 BLTTDS.

Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Điều 184 BLTTDS

1. Nội dung Điều 184 BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Một trong những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chính là quy định về thời hiệu khởi kiện. Điều 184 BLTTDS 2015 quy định:

1. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ luật dân sự.

2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.

Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.”

BLTTDS 2015 đã sửa đổi bổ sung theo hướng dẫn chiếu tới các qui định tương ứng của Bộ luật dân sự. Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện ở một số điều luật cụ thể như: Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp của mình pháp bị xâm phạm (Điều 429); Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường tổn hại là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích của mình hợp pháp bị xâm phạm (Điều 588) (BLDS 2005 qui định thời hiệu khởi kiện cho hai loại tranh chấp trên là 02 năm); Thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với yêu cầu chia di sản là 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản (Khoản 1, Điều 623); Thời hiệu đối với yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm (Khoản 2, Điều 623); Thời hiệu đối với yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời gian mở thừa kế (Khoản 3, Điều 623); Thời hiệu đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự đó (Điều 671).

Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã bỏ qui định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 159 BLTTDS 2004 được sửa đổi bổ sung năm 2011. Đó là: Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì thực hiện như sau: Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo hướng dẫn của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện; Tranh chấp không thuộc những trường hợp quy định trên thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày cá nhân, đơn vị, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân thân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu yêu cầu.

Tuy nhiên, bên cạnh những điều luật cụ thể quy định về thời hiệu khởi kiện, Bộ luật dân sự 2015 quy định về những trường hợp không áp dụng thời hiệu tại Điều 155: “Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây: Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản; Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác; Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo hướng dẫn của Luật đất đai; Trường hợp khác do luật quy định.”

Vì vậy, điểm mới trong quy định về thời hiệu khởi kiện của BLTTDS 2015 chính là nguyên tắc: Tòa án chỉ áp dụng các qui định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.

BLTTDS 2015 đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016, xong theo hướng dẫn tại điểm c khoản 1 Điều 517 BLTTDS 2015, khoản 3, 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì: Quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 BLTTDS số 24/2004/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 được áp dụng đến hết ngày 31/12/2016 để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng quy định của BLTTDS số 92/2015/QH13, Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Theo đó, BLTTDS năm 2004 hết hiệu lực kể từ ngày BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, trừ các quy định tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 tiếp tục có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2016, cụ thể: về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu và việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết.

2. Những khó khăn trong việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án

Từ đó, việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án sẽ gặp một số khó khăn, cụ thể như sau:

Thứ nhất, khoản 2 Điều 184 BLTTDS 2015 quy định Tòa án chỉ áp dụng thời hiệu khi đương sự có yêu cầu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định, nội dung này cho thấy đây là quyền của đương sự được yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu để giải quyết. Tuy nhiên, pháp luật không quy định Tòa án phải giải thích cho đương sự được biết để thực hiện quyền này. Với trình độ hiểu biết pháp luật của đa số các đương sự hiện nay, việc hiểu và nắm được quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu là một vấn đề khó khăn. Pháp luật quy định cho đương sự có quyền, nhưng thực tiễn đương sự không biết để thực hiện quyền này, điều này dẫn đến pháp luật chưa đi vào đời sống nhân dân, tính xã hội của pháp luật chưa được đảm bảo.

Thứ hai, với quy định tại khoản 2 Điều 184 BLTTDS 2015 tạo cho các Tòa án có nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí các Thẩm phán trong cùng một Tòa án cũng có thể có nhiều cách hiểu khác nhau. Có Thẩm phán hiểu và phổ biến quyền này và giải thích hậu quả pháp lý cho đương sự, ngược lại có Thẩm phán không phổ biến và tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Từ đó dẫn đến, có những vụ án có tính chất tương tự nhau, thời hiệu khởi kiện đã hết như nhau, nhưng có thể cùng một Tòa án các Thẩm phán lại có nhiều cách giải quyết vụ án khác nhau, hoặc là đình chỉ (do đương sự yêu cầu áp dụng thời hiệu) hoặc là tiếp tục giải quyết và ban hành bản án, quyết định, điều này tạo cảm giác không công bằng trong nhân dân, ảnh hưởng đến sự tin tưởng của nhân dân đối với đơn vị xét xử.

Thứ ba, pháp luật tố tụng dân sự quy định đương sự được thực hiện quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Nếu quy định như vậy, đương sự không biết quyền này và không yêu cầu áp dụng thời hiệu nên Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đến khi hết thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm (từ 04 đến 06 tháng), Tòa án đưa vụ án ra xét xử, thậm chí trước khi Hội đồng xét xử nghị án là phần tranh luận của các đương sự, lúc đó đương sự mới yêu cầu Hội đồng xét xử áp dụng thời hiệu để giải quyết vụ án thì lúc này nếu hết thời hiệu khởi kiện Tòa án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015: “1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:  Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết”.

 Trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp, thời gian tố tụng kéo dài, phải trải qua nhiều thủ tục tố tụng tốn kém như đã đo đạc, vẽ lược đồ, thẩm định, định giá, thu thập chứng cứ, xác minh, ủy thác tư pháp… Các chi phí, lệ phí do đương sự đã tạm ứng khi Tòa án đình chỉ sẽ giải quyết thế nào? Khi đó, các đương sự bị ảnh hưởng từ việc Tòa án đình chỉ do áp dụng thời hiệu theo yêu cầu của đương sự khác sẽ khiếu nại và yêu cầu Tòa án giải thích pháp luật. Tóm lại, việc quy định đương sự được quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu ở thời đểm trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định sẽ dẫn đến nhiều vướng mắc, bất cập.

3. Đề xuất sửa đổi, bổ sung

Theo quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 4 Điều 210 BLTTDS  2015 quy định tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải quy định Thẩm phán phổ biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ theo hướng dẫn của BLTTDS và các quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án. Cũng căn cứ vào Điều 8 BLTTDS năm 2015 quy định: “1. Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi đơn vị, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án. 2. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đơn vị, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự”. Vì vậy, các đương sự khi tham gia tố tụng là hoàn toàn bình đẳng về quyền và nghĩa vụ và đương sự phải được Tòa án giải thích trọn vẹn về quyền và nghĩa vụ của mình. Vì vậy, Thẩm phán phải giải thích cho đương sự biết quyền được yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu. Từ những phân tích trên, chuyên gia có một số đề xuất cần phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung của pháp luật để việc áp dụng pháp luật về thời hiệu được hiệu quả, phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cụ thể là:

Thứ nhất, cần chỉnh sửa, bổ sung nội dung tại khoản 2 Điều 184 BLTTDS 2015 và khoản 2 Điều 149 BLDS  2015 cụ thể như sau: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước hoặc tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất”.

Thứ hai, cần chỉnh sửa, bổ sung nội dung tại khoản 1 Điều 210 cụ thể như sau: “Trước khi tiến hành phiên họp, Thư ký Tòa án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp đã được Tòa án thông báo. Thẩm phán chủ trì phiên họp kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia, phổ biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ theo hướng dẫn của Bộ luật này, trong đó phải phổ biến cho các đương sự biết quyền được yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu để giải quyết vụ việc”.

Thứ ba, cần chỉnh sửa, bổ sung nội dung tại điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS  2015 cụ thể như sau: “Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước hoặc tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất và thời hiệu khởi kiện đã hết”.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com