Thực trạng bất bình đẳng giới trong việc làm ở Việt Nam

Bất bình đẳng giới là một sự kiện tiêu cực của xã hội mà chúng ta cần phải đấu tranh để loại bỏ chúng. Vậy, bất bình đẳng giới là gì, nguyên nhân nào dẫn đến sự kiện này, hệ quả của chúng và bất bình đẳng giới trong việc làm sẽ được giới thiệu trong nội dung trình bày dưới đây. Hãy cùng nghiên cứu !.

Thực trạng bất bình đẳng giới trong việc làm ở Việt Nam

1. Bất bình đẳng giới là gì?

Bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt đối với nam và nữ về cơ hội, sự tham gia, tiếp cận, kiểm soát và thụ hưởng các nguồn lực. Sự phân biệt đối xử giữa nam giới và phụ nữ, tư tưởng trọng nam khinh nữ có thể xem như yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Vì thế mà hiện nay bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước dành sự ưu tiên đặc biệt. Luật Bình đẳng giới đề ra mục tiêu tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực nhưng trên thực tiễn vẫn tồn tại sự bất bình đẳng.

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.

2. Bất bình đẳng giới trong việc làm

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Bình đẳng giới được đánh giá dưới nhiều góc độ và được quy định tại Luật Bình đẳng giới số 73/2006/QH11 ngày 29/11/2006. Bình đẳng giới trong lao động và việc làm là một trong những nội dung cần thiết trong đánh giá bình đẳng về giới trong giai đoạn hiện nay. Ở nước ta, bình đẳng giới đã được cải thiện trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vẫn còn khác biệt nhiều giữa thành thị và nông thôn; giữa các vùng kinh tế.

Quy mô dân số liên tục tăng trong các năm qua, cùng với lợi thế cơ cấu dân số vàng đã gửi tới nguồn nhân lực vô cùng lớn cho thị trường lao động tại Việt Nam, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam cao nhất trong khu vực Đông Nam Á với mức 76,8%, độ tuổi từ 25-49 tuổi tham gia vào lực lượng lao động rất cao từ 95,2%-96,7%. Trong đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở phụ nữ là 76,8% cũng là tỷ lệ khá cao có thể bị hiểu nhầm là một chỉ báo về mức độ bất bình đẳng giới tương đối thấp trong tham gia lực lượng lao động khi tỷ lệ này ở nam giới cũng chỉ ở mức 81,9%. Tuy nhiên, nhìn sâu hơn thì điều đó lại gây ra “gánh nặng kép” một cách không tương xứng và phụ nữ Việt Nam phải đối mặt với nhiều bất bình đẳng có tính chất dai dẳng do vị thế việc làm có sự khác biệt tương đối rõ ràng giữa nam và nữ và bất bình đẳng công việc không được trả công trong lao động gia đình.

Trong các vùng kinh tế, sự chênh lệch giữa tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2019 ở nam và nữ cao nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long khi tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ là 66,1%, nam là 83,8% (chênh lệch 17,7 điểm phần trăm), tiếp đến là Đông Nam Bộ có tỷ lên tương ứng là 64,2% và 79,1% (chênh lệch 14,9 điểm phần trăm), vùng Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung có 75,2% và 83,3% (chênh lệch 8,1 điểm phần trăm), Tây Nguyên 80,3% và 87,7% (chênh lệch 7,4 điểm phần trăm), Đồng bằng Sông Hồng 70,8% và 76,8% (chênh lệch 6 điểm phần trăm), Trung du và miền núi phía Bắc có  mức chênh lệch thấp nhất cả nước là 3,5 điểm phần trăm khi các tỷ lệ tương ứng lần lượt là 84,5% và 88%.

Quy mô lao động có việc làm trong nền kinh tế cũng liên tiếp tăng theo thời gian, từ 53,7 triệu người năm 2017 lên 54,6 triệu người năm 2019, trong đó lao động nam tăng từ 27,9 triệu người lên gần 28,8 triệu người và lao động nữ tăng từ 25,8 triệu người lên 25,9 triệu người. Chuyển dịch cơ cấu lao động tiếp tục theo xu hướng tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Nếu xem xét riêng 2 nhóm của việc làm dễ bị tổn thương (lao động tự làm và lao động gia đình), chúng ta có thể nhận thấy rằng lao động tự làm ở nam giới và nữ giới của Việt Nam là tương đương nhau. Tuy nhiên, phụ nữ có nguy cơ trở thành lao động gia đình cao hơn gấp đôi so với nam giới. Năm 2019, 2/3 lao động gia đình ở Việt Nam là phụ nữ (5 triệu lao động gia đình là nữ). Họ chiếm gần 1/4 việc làm của phụ nữ nông thôn (17,6 triệu lao động nữ nông thôn), so với chỉ 2,7 triệu lao động gia đình là nam giới, chiếm 13% của tổng số việc làm của nam giới ở nông thôn (19,5 triệu).

Số liệu về vị thế việc làm cho thấy những bất lợi đáng kể của phụ nữ khi tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận và làm công việc ổn định thấp hơn nam giới. Xem xét số liệu về cơ cấu lao động trong nền kinh tế theo vị thế công tác cho thấy chỉ 43% phụ nữ có việc làm là lao động làm công ăn lương, so với 51,4% nam giới có việc làm. Trong khi lao động gia đình không được trả công ở nam giới là 9,2%, con số này ở nữ giới cao gấp hơn 2 lần, 19,4% trong năm 2019. Tỷ lệ nữ làm công ăn lương tăng từ 37,9% trong năm 2017 lên 43% trong năm 2019, số liệu này cho thấy tính khả thi của mục tiêu đề ra tại chỉ tiêu 1, mục tiêu 2 của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 đề ra “tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương lên đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030”. Chỉ tiêu 2 mục tiêu 2 của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới cũng đề ra “Giảm tỷ trọng lao động nữ công tác trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030”. Hiện tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng giảm dần nhưng vẫn chiếm đến 35,9% ở nữ giới và 33,2% ở nam giới trong năm 2019.

3. Nguyên nhân của bất bình đẳng giới là gì?

Bất bình đẳng giới được xuất phát từ thời phong kiến xa xưa truyền lại cho đến thời bây giờ. Ông bà và cha mẹ hay truyền dạy con cháu những nguyên mẫu về quan niệm, hành vi và truyền thống thích hợp đối với mỗi giới và kỳ vọng của xã hội đối với nam và nữ.

Nữ giới luôn bị gán với tính cách dịu dàng; là người mẹ người vợ, người con dâu, bà nội trợ phụ thuộc vào kinh tế của người chồng. Từ đó nam giới trở thành trụ cột về kinh tế, là tâm gương về đạo đức, lối sống; có quyền quyết định mọi việc trong gia đình, uỷ quyền cho gia đình trong các mối quan hệ xã hội và cộng đồng.

Đây thực chất là những đặc tính được xã hội gán cho hoặc mong đợi của nam lẫn nữ. Chính những quan niệm này đã tạo nên bất bình đẳng giới trong xã hội từ xưa đến nay. Người chồng luôn nghĩ phụ nữ thấp kém hơn mình, là tài sản của mình; dẫn đến tình trạng phụ nữ không được tôn trọng. Từ đó người đàn ông có tính gia trưởng và xu hướng bạo lực trong gia đình ngày càng tăng.

Bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt đối với nam và nữ về cơ hội, sự tham gia, tiếp cận, kiểm soát và thụ hưởng các nguồn lực. Thực tế cả đàn ông và phụ nữ đều sinh ra và lớn lên, họ cần được bình đẳng về nhiều khía cạnh. Không có sự khác biệt gì giữa nam và nữ ở góc độ giới, nếu có chăng thì chỉ là sự khác biệt về giới tính.

3. Bất bình đẳng giới biểu hiện thế nào trong cuộc sống hằng ngày (gia đình, xã hội)?

Các thể chế xã hội, tập tục, phong cửa hàng đã tác động rất lớn đến những người làm giáo dục. Ngay cả chúng ta không công khai phân biệt thì những định kiến vẫn quy chúng ta về những vai trò thích theo giới. Nhiều người trình độ học vấn thấp, gia trưởng, bảo thủ cũng là nguyên nhân gây bất bình đẳng giới. Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng này.

Nguyên nhân bất bình đẳng giới trong giáo dục là do các thể chế xã hội, các chuẩn mực, tập cửa hàng, luật lệ của xã hội đã tác động rất lớn tới những người làm trong ngành giáo dục. Chính những điều đó đã quy định khuyến khích được không khuyến khích các định kiến về giới tính.

Ngay cả khi chúng ta không công khai phân biệt thì những định kiến, chuẩn mực đó vẫn quy định chúng ta về những vai trò thích hợp theo giới. Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo dục. Tình trạng đói nghèo của các gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ cũng là nguyên nhân.

4. Hệ quả của bất bình đẳng giới nghiêm trọng đến mức nào?

Hệ quả của việc bất bình đẳng giới để lại rất nghiệm trọng về mọi mặt: kinh tế, chính trị – xã hội và gia đình.

Về kinh tế: Việc chênh lệch thu nhập trong cùng một vị trí đảm nhiệm vẫn còn hiện hữu. Cơ hội để phụ nữ tiếp cận những ngành nghề có thu nhập cao vẫn thấp hơn nam giới. Khi bị cắt giảm nhân sự, nữ là đối tượng dễ bị rủi ro và tổn thương hơn.

Về chính trị – xã hội: Tỷ lệ nữ giới làm công tác quản lý hiện đã được cải thiện những vẫn còn thấp các vị trí quản lý.

Trong gia đình: Phụ nữ vẫn phải làm những công việc nội trợ là chủ yếu; vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ trong quá trình sinh con, nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch hóa gia đình. Mặt khác, phụ nữ còn gặp phải những vấn đề khác như bạo lực gia đình, mất cân bằng giới tính, nạn nhân của buôn bán người, bóc lột lao động, xâm hại tình dục.

Bất bình đẳng giới là một việc đáng bị nên án, hãy bình đẳng giới để mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hy vọng nội dung trình bày trên đây giúp bạn hiểu rõ hơn về Nguyên nhân bất bình đẳng giới, cũng như biểu hiện và hậu quả của nó, từ đó có cách nghĩ khác về bình đẳng giới trong xã hội.

Trên đây là một số thông tin về nội dung bất bình đẳng giới trong việc làm. Nếu các bạn vẫn còn câu hỏi liên quan đến vấn đề trên, hãy liên hệ với LVN Group để được hỗ trợ tư vấn trực tiếp.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com