Trên cơ sở tổng kết năm năm thực hiện Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X, Ðại hội XI của Ðảng vừa qua đã bổ sung, sửa đổi một số nội dung trong Ðiều lệ Ðảng để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ mới và phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã được Ðại hội XI của Ðảng thông qua. Hãy cùng Tìm hiểu về Bổ sung và sửa đổi Điều lệ Đảng qua nội dung trình bày sau đây.
1. Khái quát chung về Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
Điều lệ Đảng là gì?
Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam là một trong số những văn kiện cần thiết nhất của Đảng cộng sản Việt Nam.
Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam xác định rõ mục đích, tôn chỉ của Đảng, đưa ra quy định cụ thể về nhiệm vụ của Đảng viên, nguyên tắc tổ chức và cơ cấu của các tổ chức của Đảng, các đơn vị lãnh đạo của Đảng ở cấp trung ương, địa phương, tổ chức cơ sở Đảng, tổ chức Đảng trong quân đội, công an…
Điều lệ đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam là bản Điều lệ vắn tắt được thông qua tại Đại hội thành lập Đảng năm 1930. Điều lệ đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam ban đầu chỉ gói gọn trong 9 điều cụ thể.
Tính đến nay thì Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam đã được sửa đổi tổng cộng 12 lần. Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam do Đại hội Đảng toàn quốc thông qua và ban hành trong các giai đoạn cụ thể nên nhằm mục đích để Điều lệ Đảng luôn phù hợp với bối cảnh mới thì khi tổ chức Đại hội Đảng các tổ soạn thảo thường đề xuất ý kiến để Đại hội thảo luận sửa đổi, bổ sung một số vấn đề trong điều lệ.
Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam thường được bổ sung, sửa đổi qua các kì Đại hội của Đảng cho phù hợp với mỗi giại đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Bản Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam hiện hành bao gồm 12 chương và có tổng cộng 48 điều.
Vì vậy, ta nhận thấy, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là văn bản pháp lý cơ bản có ý nghĩa và vai trò vô cùng cần thiết của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng, các nguyên tắc về tổ chức, hoạt động, cơ cấu bộ máy của Đảng Cộng sản Việt Nam qua từng thời kỳ, giai đoạn; đưa ra các quy định cụ thể về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và của tổ chức đảng các cấp.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam có trách nhiệm thông qua và ban hành. Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải chấp hành Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng nhằm các mục đích sau đây:
– Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng nhằm thống nhất tư tưởng, tổ chức và hành động trong toàn Đảng Cộng sản Việt Nam;
– Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng nhằm thực hiện mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau đây:
– Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là một văn bản pháp lý của Ðảng đảm bảo được thi hành thống nhất nghiêm minh (Quy định hướng dẫn thi hành Điều lệ)
– Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ có giá trị và hiệu lực thi hành trong toàn Ðảng và có nội dung thể hiện trong Hiến Pháp năm 2013 của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
– Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam tương đối ổn định, có tính kế thừa và phát triển từ Điều lệ đầu tiên được ra đời ngày 03-02-1930 đến Điều lệ hiện hành.
– Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành được thông qua ngày 19 – 01 – 2011 tại Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ XI.
2. Nội dung cơ bản của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
Nội dung phần mở đầu của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam:
– Khái quát về lịch sử dân tộc: Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
– Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; là một đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
– Mục đích chính của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn giai cấp bóc lột người, thực hiện thành công Chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là Chủ nghĩa cộng sản.
– Nền tảng tư tưởng cho các hành động của Đảng là Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hộ Chí Minh.
– Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
– Vai trò của Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng có vai trò cầm quyền trong hệ thống chính trị và trong mối quan hệ mật thiết với nhân dân các tầng lớp xã hội.
– Đảng Cộng sản Việt Nam kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân từ đó đã góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân trên toàn thế giới.
– Cần luôn chú ý xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng Đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng.
Các chương của Điều lệ Đảng:
Bao gồm 12 chương, 48 điều
– Chương I: Đảng viên (từ điều 1 đến điều 8).
– Chương II: Nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng (từ điều 9 đến điều 14).
– Chương III: Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương (từ điều 15 đến điều 17).
– Chương IV: Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp địa phương (từ điều 18 đến điều 20).
– Chương V: Tổ chức cơ sở đảng (từ điều 21 đến điều 24).
– Chương VI: Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam (từ điều 25 đến điều 29).
– Chương VII: Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và ủy ban kiểm tra các cấp (từ điều 30 đến điều 33).
– Chương VIII: Khen thưởng và kỷ luật (từ điều 34 đến điều 40).
– Chương IX: Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị – xã hội (từ điều 41 đến điều 43).
– Chương X: Đảng lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (từ điều 44 đến điều 45).
– Chương XI: Tài chính của Đảng (Điều 46)
– Chương XII: Chấp Hành Điều lệ Đảng (từ điều 47 đến điều 48).
Một số nội dung cơ bản của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: Bản chất giai cấp công nhân của Đảng; Nhiệm vụ và quyền của Đảng viên; Thủ tục kết nạp Đảng viên; Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; Cơ quan lãnh đạo của Đảng và Khen thưởng và kỷ luật trong Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Những vấn đề mới được bổ sung, sửa đổi trong Ðiều lệ Ðảng ở Ðại hội XI
Việc bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng được tiến hành trên cơ sở cửa hàng triệt các quan điểm và nguyên tắc cơ bản là: Những nội dung nào được quy định trong Ðiều lệ Ðảng qua thực tiễn hoạt động vẫn đúng và phù hợp thực tiễn thì giữ nguyên; những nội dung nào quy định trong Ðiều lệ Ðảng nhưng qua hoạt động thực tiễn thấy không còn phù hợp hoặc chưa rõ, việc thực hiện khó khăn, thiếu thống nhất thì phải bỏ hoặc sửa đổi cho phù hợp; những vấn đề nào chưa được quy định trong Ðiều lệ Ðảng nhưng thực tiễn của công tác xây dựng Ðảng đã và đang đặt ra thì phải bổ sung để thực hiện. Quán triệt các quan điểm, nguyên tắc nêu trên, Ðại hội XI của Ðảng đã thông qua toàn văn Ðiều lệ Ðảng (bổ sung, sửa đổi) ngày 19-1-2011 gồm: Phần mở đầu, 12 chương và 48 điều. Ngoài việc sửa đổi cụm từ ‘giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân’ thành ‘gắn bó mật thiết với nhân dân’ ở phần mở đầu, trong các điều của Ðiều lệ Ðảng có 11 nội dung mới được bổ sung, sửa đổi sau đây:
Một là, bổ sung nội dung về tiêu chuẩn đảng viên: Ðiều 1, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định tiêu chuẩn đảng viên như sau: ‘Ðảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,…’. Trên cơ sở tổng kết 25 năm thực hiện đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho thấy: Người đảng viên không chỉ là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà còn là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Do đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã được bổ sung thêm nội dung ‘nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam’. Vì vậy, để thống nhất với tiêu chuẩn đảng viên được ghi trong Cương lĩnh và phần đầu của Ðiều lệ Ðảng, Ðiều 1, Ðiều lệ Ðảng đã được bổ sung thêm cụm từ ‘nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam’ và thể hiện trọn vẹn như sau: ‘Ðảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam’.
Hai là, bổ sung nội dung về nhiệm vụ của đảng viên: Ngoài các nhiệm vụ của đảng viên được quy định tại Ðiều 2, Ðiều lệ Ðảng, Bộ Chính trị các khóa vừa qua còn có Quy định về ‘Những điều đảng viên không được làm’. Trong quá trình thực hiện, có nhiều ý kiến cho rằng cần đưa nội dung những điều đảng viên không được làm vào trong Ðiều lệ Ðảng để tính pháp lý cao hơn và mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy nhiên, qua thảo luận, phần lớn đại biểu đại hội cho rằng: Nếu đưa tất cả những điều đảng viên không được làm vào trong Ðiều lệ Ðảng thì Ðiều lệ Ðảng sẽ dài và khi cần phải bổ sung, sửa đổi thì phải chờ đến Ðại hội Ðảng toàn quốc. Do đó, Ðiều lệ Ðảng chỉ nên ghi một câu chung là: đảng viên phải ‘Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm’, còn nội dung cụ thể thì Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị xem xét, quyết định cho phù hợp. Vì vậy, Ðiều 2, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung thêm nội dung về nhiệm vụ của đảng viên là: đảng viên phải ‘Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm’.
Ba là, bổ sung, sửa đổi về việc thành lập tổ chức cơ sở đảng:
Ðiều 21, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: ‘Ở xã, phường, thị trấn, đơn vị, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng’. Trong thực tiễn của công tác xây dựng Ðảng thời gian qua cho thấy: Cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới đất nước, có rất nhiều đơn vị cơ sở thuộc các loại hình được thành lập mới hoặc chia tách, sáp nhập…, nếu đơn vị nào cứ có đủ từ ba đảng viên chính thức trở lên đều thành lập tổ chức cơ sở đảng và trực thuộc cấp ủy cấp huyện thì cấp ủy huyện, quận và tương đương sẽ có rất nhiều tổ chức cơ sở đảng trực thuộc, việc theo dõi, quản lý và phân bổ đại biểu dự đại hội đại biểu đảng bộ cấp mình có rất nhiều khó khăn, phức tạp. Vì vậy, Ðiều 21, Ðiều lệ Ðảng đã được bổ sung và sửa đổi để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn như sau: ‘Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở đơn vị, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp’.
Bốn là, bổ sung sửa đổi về cách tính nhiệm kỳ đại hội của những tổ chức đảng mới thành lập, chia tách, sáp nhập… trong nhiệm kỳ ở các cấp: Ðiều 13, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: ‘Ðối với tổ chức đảng mới thành lập, cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy lâm thời; chậm nhất trong vòng một năm kể từ ngày có quyết định chỉ định, tổ chức đảng đó phải tiến hành đại hội; nếu kéo dài thêm thời gian phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý’.
Thực tiễn của công tác xây dựng Ðảng những năm qua cho thấy: Việc thành lập mới hoặc chia tách, sáp nhập các tổ chức đảng ở các cấp trong nhiệm kỳ được diễn ra thường xuyên, do đó nhiệm kỳ của những tổ chức đảng này không khớp với nhiệm kỳ của tổ chức đảng cấp trên và kéo dài từ nhiệm kỳ hiện tại sang nhiệm kỳ sau của tổ chức đảng cấp trên. Vì vậy, năm nào cấp ủy cấp trên cũng phải chỉ đạo đại hội hết nhiệm kỳ của một số tổ chức đảng và trong các kỳ tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Ðại hội đại biểu toàn quốc của Ðảng đều có một số tổ chức đảng chỉ tiến hành đại hội ba nội dung do chưa hết nhiệm kỳ. Vì vậy, Ðiều 13, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung, sửa đổi về nhiệm kỳ đại hội đảng ở những nơi mới thành lập, chia tách, sáp nhập… trong nhiệm kỳ đại hội ở các cấp như sau: ‘Từ tổ chức cơ sở đảng đến đảng bộ trực thuộc Trung ương nếu được thành lập mới, chia tách, hợp nhất, sáp nhập trong nhiệm kỳ, thì cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy chính thức; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung nhiệm vụ cho phù hợp; nhiệm kỳ đầu tiên của các cấp ủy này không nhất thiết phải là 5 năm để nhiệm kỳ đại hội phù hợp với nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đảng cấp trên’.
Năm là, bổ sung, sửa đổi việc tính tuổi đảng của đảng viên:
Ðiều 5, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: ‘Tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định công nhận đảng viên chính thức’. Qua thực hiện, nhiều cấp ủy và đảng viên cho rằng: Quần chúng ưu tú sau khi được kết nạp vào Ðảng, tuy mới là đảng viên dự bị, nhưng thực chất là người đã đứng trong hàng ngũ của Ðảng và đã phải thực hiện các nhiệm vụ của người đảng viên theo hướng dẫn của Ðiều lệ Ðảng, do đó sau khi được công nhận là đảng viên chính thức thì tuổi đảng của đảng viên nên được tính từ khi được kết nạp vào Ðảng. Vì vậy, Ðại hội XI đã quyết định bổ sung, sửa đổi Ðiều 5, Ðiều lệ Ðảng về thời gian tính tuổi đảng của đảng viên như sau: ‘Ðảng viên đã được công nhận chính thức thì tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp’. Tuy nhiên, việc thực hiện nội dung này thế nào (chỉ thực hiện đối với những đảng viên được kết nạp sau khi Ðại hội XI thông qua Ðiều lệ Ðảng hay thực hiện đối với tất cả đảng viên trong toàn Ðảng) đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Do đó, vấn đề này còn phải chờ Quy định của Bộ Chính trị và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về thi hành Ðiều lệ Ðảng.
Sáu là, bổ sung về thẩm quyền kỷ luật đảng viên của cấp ủy tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương: Ðiều 36, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: ‘Cấp ủy tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các cách thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên cùng cấp’. Qua thực tiễn hoạt động cho thấy việc quy định như vậy là chưa thật phù hợp. Vì vậy, Ðại hội XI đã bổ sung, sửa đổi Ðiều 36, Ðiều lệ Ðảng và được thể hiện trọn vẹn như sau: ‘Cấp ủy tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các cách thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên cùng cấp vi phạm nhiệm vụ do cấp ủy giao’.
Bảy là, bổ sung việc giao cho Ban Chấp hành Trung ương quyết định việc chỉ đạo thực hiện thí điểm một số chủ trương mới:
Ðiều 48, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: ‘Chỉ Ðại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Ðiều lệ Ðảng’. Thực tiễn của công tác xây dựng Ðảng cho thấy: Trong một nhiệm kỳ Ðại hội Ðảng toàn quốc, cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, công tác xây dựng Ðảng cũng nảy sinh nhiều vấn đề mới cần phải xem xét, giải quyết cho phù hợp với thực tiễn, nhưng vấn đề đó lại chưa được quy định trong Ðiều lệ Ðảng. Mặt khác, với trách nhiệm là đơn vị lãnh đạo cao nhất của Ðảng giữa hai kỳ đại hội, Ban Chấp hành Trung ương phải chuẩn bị những nội dung cần bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng để trình Ðại hội xem xét, quyết định. Nếu trong những vấn đề mới nảy sinh đó có những vấn đề đang còn có ý kiến khác nhau, chưa tạo được sự thống nhất cao thì cần thiết phải thực hiện thí điểm để Ban Chấp hành Trung ương có trọn vẹn cơ sở lý luận và thực tiễn trình ra Ðại hội. Vì vậy, để đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đặt ra và tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn Ðảng về việc chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới khi chưa được quy định trong Ðiều lệ Ðảng, khoản 2, Ðiều 16, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung thêm nội dung: ‘Ban Chấp hành Trung ương căn cứ tình hình thực tiễn quyết định chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới’.
Tám là, thay đổi tên gọi của Ðảng ủy Quân sự Trung ương: Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: ‘Ðảng ủy Quân sự Trung ương (gọi tắt là Quân ủy Trung ương)’. Trong quá trình thảo luận ở đại hội đảng bộ các cấp cũng như ở Ðại hội XI của Ðảng, nhiều đại biểu đại hội đề nghị không nên gọi là Ðảng ủy Quân sự Trung ương (gọi tắt là Quân ủy Trung ương) mà gọi là Quân ủy Trung ương theo tên gọi truyền thống từ những ngày thành lập của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vì vậy, Ðại hội đã biểu quyết tán thành đổi tên gọi của Ðảng ủy Quân sự Trung ương thành ‘Quân ủy Trung ương’.
Chín là, bổ sung nội dung về sự lãnh đạo của Ðảng, Nhà nước đối với Quân đội, Công an: Ðể bảo đảm vai trò lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước đối với Quân đội, Công an, khoản 1,
Ðiều 25, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung hai nội dung sau: ‘Ðảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; Sự lãnh đạo của Ðảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Ðảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân… Nhà nước thống nhất quản lý đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng dẫn của Hiến pháp và pháp luật’.
Mười là, bổ sung nội dung nhằm cụ thể hóa một số chức danh và vai trò chỉ đạo của Ðảng đối với Quân đội: Nhằm bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng đối với Quân đội, Ðiều 26 và Ðiều 27, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung nội dung nhằm cụ thể hóa một số chức danh và xác định vai trò lãnh đạo của Ðảng trong Quân đội như sau: ‘Ðồng chí Tổng Bí thư là Bí thư Quân ủy Trung ương’; ‘Ðồng chí bí thư cấp ủy địa phương trực tiếp làm bí thư đảng ủy quân sự cùng cấp’.
Mười một là, bổ sung, sửa đổi về chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng: Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: Ðảng đoàn, ban cán sự đảng kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Ðảng. Qua thực tiễn hoạt động của đảng đoàn, ban cán sự đảng trong những năm qua cho thấy: Ðảng đoàn, ban cán sự đảng không có tổ chức bộ máy và cán bộ riêng nên việc thực hiện công tác kiểm tra chấp hành đường lối, chính sách của Ðảng không thực hiện được, chỉ nên quy định lãnh đạo công tác kiểm tra là phù hợp. Vì vậy, Ðiều 42 và Ðiều 43, Ðiều lệ Ðảng được bổ sung, sửa đổi: Ðảng đoàn, ban cán sự đảng lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Ðảng.
Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan đến Sửa đổi Điều lệ Đảng mà LVN Group đã chia sẻ đến quý bạn đọc. Hy vọng rằng với những thông tin trên, quý bạn đọc có thể áp dụng được trong cuộc sống và công việc. Mọi thông tin câu hỏi, vui lòng liên hệ với chúng tôi; LVN Group với đội ngũ chuyên viên với nhiều năm kinh nghiệm trong nghề sẽ hỗ trợ quý bạn đọc một cách chuyên nghiệp và nhanh chóng nhất. Công ty Luật LVN Group – Đồng hành pháp lý cùng bạn.