1. Bất khả xâm phạm là gì?
Bất khả xâm phạm là Không ai có thể xâm phạm đến, đụng đến quyền của một thực thể, một chủ thể không bị xâm phạm đến một số đối tượng của mình được luật quốc tế công nhận, luật quốc gia quy định.
Bất khả xâm phạm là quyền không thể xâm phạm đến của cá nhân, tổ chức hoặc lớn hơn là một quốc gia nào đó. Pháp luật bảo vệ quyền bất khả xâm phạm đó. Đối với công dân, theo Hiến pháp nước CNXHCN Việt Nam thì công dân có 02 quyền bất khả xâm phạm về thân thể và chỗ ở.
Bất khả xâm phạm là quyền không thể xâm phạm đến của cá nhân, tổ chức hoặc lớn hơn là một quốc gia nào đó. Pháp luật bảo vệ quyền bất khả xâm phạm đó. Đối với công dân, theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì công dân có 02 quyền bất khả xâm phạm là quyền bất khả xâm phạm về thân thể và quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
2. Như thế nào là quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư?
Đời tư và bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật bảo vệ và bất khả xâm phạm. Đây là quyền nhân thân gắn liền với mỗi công dân. Pháp luật có những quy định về quyền bí mật đời tư không chỉ trong Bộ luật dân sự mà còn đề cập trong một số văn bản pháp luật quốc tế và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Bộ luật Tố tụng Dân sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Quản lý Thuế…cao nhất là được ghi nhận trong Hiến Pháp. Đây là cơ sở pháp lý cần thiết trong việc đảm bảo quyền bí mật đời tư của cá nhân.
Căn cứ theo Điều 38 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: “Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.”
Với quyền này, cá nhân được sống như mong muốn của mình mà không chịu ảnh hưởng, tác động bởi bất kỳ chủ thể nào khác; Còn “bí mật cá nhân, bí mật gia đình ” là những thông tin, tư liệu mà cá nhân không muốn công khai, bộc bạch, được giữ kín bằng các biện pháp thông thường hoặc biện pháp kỹ thuật khác nhau.
Do đó nếu có ai xâm phạm đến quyền này thì người có quyền bị xâm phạm có thể yêu cầu các đơn vị nhà nước can thiệp, bảo vệ.
3. Quy định về quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư trong một số văn bản luật quốc tế
Trong các công ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia không quy định về quyền bí mật đời tư mà quy định về quyền riêng tư. Có thể hiểu một cách chung nhất, quyền riêng tư là quyền bảo vệ đời sống của cá nhân mà các cá nhân, tổ chức khác không được xâm nhập hay công bố thông tin. Nội dung cơ bản của quyền riêng tư gồm có: sự riêng tư về thông tin cá nhân, cơ thể, thông tin liên lạc và nơi cư trú. Về bí mật đời tư, không có văn bản nào đưa ra khái niệm về bí mật đời tư nhưng xét về từ ngữ ta thấy, nội dung của quyền riêng tư rộng hơn nội dung của quyền bí mật đời tư. Vì vậy, chúng ta có thể khai thác những quy định về bí mật đời tư trong quyền riêng tư ở một số công ước quốc tế.
Trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948 (UDHR), Điều 12 ghi nhận:
“Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân; mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy.”
Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), Điều 17 nêu rằng:
“Không ai bị can thiệp một cách tuỳ tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy.”
Về cơ bản, cả Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đều ghi nhận giống nhau: mỗi người đều được bảo vệ về những điều riêng tư trong đời sống cá nhân, gia đình, nơi ở và thư tín. Cả hai văn bản này đều có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam, mỗi cá nhân đều được Nhà nước Việt Nam bảo vệ quyền riêng tư này.
4. Quy định về quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư tại Việt Nam
4.1 Quy định về quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư trong Hiến pháp
Điều 21 Hiến pháp năm 2013 đã có quy định như sau:
“- Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình”.
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
“- Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác”.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các cách thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.Dù không có văn bản hướng dẫn và nếu xảy ra vi phạm sẽ rất khó xác định thế nào là đời sống riêng tư nhưng quy định này đã mở rộng phạm vi hơn nhiều so với quyền bí mật đời tư. Mặt khác, Điều 21 Hiến pháp năm 2013 còn quy định thông tin bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn và khẳng định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về bí mật gia đình.
4.2 Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật báo chí
Với tính chất đặc thù của nghề nghiệp, báo chí là lĩnh vực có liên quan nhiều nhất đến bí mật đời tư cá nhân, đồng thời cũng là lĩnh vực mà việc xâm phạm bí mật đời tư cá nhân xảy ra mọt cách thường xuyên, như một sự việc hiển nhiên của ngành, thậm chí việc xâm phạm bí mật đời tư là một việc không thể thiếu nếu muốn có một bài báo “giật gân”, “nổi”, thu hút dư luận chú ý. Và những người bị báo chí xâm phạm bí mật đời tư phần lớn là những người nổi tiếng, bên cạnh đó thì mỗi cá nhân đều dễ dàng trở thành đối tượng bị xâm phạm bí mật đời tư trong giới báo chí.
Khoản 3 và khoản 4 Điều 5 Nghị định 51/2002/NĐ-CP hướng dẫn Luật Báo chí quy định:
“Không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó (trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án)”.
Khi báo chí công khai những hình ảnh cá nhân, bí mật đời tư, có nhiều phản ứng trái chiều. Nhưng hầu như không ai đồng tình với việc thông tin cá nhân, bí mật của mình được đăng tải trên báo chỉ, được nhiều người biết đến, dù là tốt đẹp nhưng đó là những điều không mong muốn công khai.
Luật chỉ quy định “không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó” mà không quy định về việc xin sự cho phép việc đăng ảnh. Thậm chí, cũng chỉ có quy định cụ thể về hình ảnh chứ không có quy định cụ thể về bí mật đời tư. Chính vì vậy mà hiện nay việc báo chí khai thách một cách công khai, tràn lan bí mật đời tư, đặc biệt là của người nổi tiếng là một việc phổ biến, thậm chí đã trở thành chuyện bình thường trên mặt báo.
Quy định báo chí được quyền đăng thông tin, hình ảnh của cá nhân trong trường hợp”
“Người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án”.
Bên cạnh đó, cũng không quy định khoảng thời gian được phép đăng tải những thông tin, hình ảnh của những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án. Có những trường hợp báo chí đăng tải lại thông tin của những vụ án đã xảy ra rất lâu, hay đăng tải thông tin theo kiểu “người một thời” trong khi những sự việc này đã là sự việc của quá khứ, những con người đó có thể đã trở về với cuộc sống của một người bình thường. Dù việc đăng tải lại những thông tin này với mục đích nào, việc đào bới lại quá khứ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của cá nhân người đó và những người thân xung quanh.
4.3 Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật giao dịch điện tử
Điều 46 Luật giao dịch điện tử 2005 quy định về Bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử:
“- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn các biện pháp bảo mật phù hợp với quy định của pháp luật khi tiến hành giao dịch điện tử.
– Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, gửi tới hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của đơn vị, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Giao dịch điện tử cũng là một lĩnh vực liên quan nhiều đến môi trường mạng, và việc xử lí thông tin trong giao dịch điện tử là việc mà không phải ai cũng biết, đòi hỏi có một trình độ chuyên sâu nhất định. Chính vì vậy việc rò gỉ thông tin khi giao dịch điện tử rất dễ xảy ra, khó kiểm soát, và đôi khi chính bản thân người bị xâm phạm cũng không biết. Điều 46 Luật Giao dịch điện tử đã quy định về bảo mật thông tin tuy nhiên quy định này còn khá chung chung, cần làm rõ hơn, đặc biệt những trường hợp pháp luật có quy định khác cần quy định rõ ràng
5. Tổng hợp hình phạt cho tội xâm phạm quyền riêng tư cá nhân của người khác
Như đã phân tích ở trên có thể thấy rằng, pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền riêng tư của mỗi người và không ai được phép xâm phạm, nếu xâm phạm thì sẽ phải chịu hình phạt theo hướng dẫn của pháp luật. Căn cứ khi xâm phạm quyền riêng tư của người khác bạn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính nếu thuộc vào trường hợp theo hướng dẫn tại điều 102, nghị định 15/2020, nghị định xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến lĩnh vực bưu chính viễn thông, giao dịch điện tử.
Theo quy định này ta có thể xác định được như sau: Nếu một cá nhân, tổ chức hoặc đơn vị thực hiện hành vi gửi tới, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Dó đó có thể thấy, xâm phạm quyền riêng tư về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, gửi tới, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.
Bên cạnh đó, theo hướng dẫn của pháp luật hiện hành thì khi một cá nhân, tổ chức hoặc đơn vị thực hiện hành vi xâm phạm quyền riêng tư của người khác có thể rơi vào tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác và bị xử lý theo điều 159, Bộ luật hình sự 2015. Tức là xâm phạm quyền riêng tư có thể bị xử lý hình sự. Căn cứ như sau:
– Người nào thực hiện hành vi chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ cách thức nào đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
– Người nào thực hiện hành vi Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông; đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
– Người nào thực hiện hành vi nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật; đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
– Người nào thực hiện hành vi khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật; đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
– Người nào thực hiện hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
– Người nào thực hiện hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác có tổ chức hoặc là lợi dụng chức vụ, quyền hạn; hoặc đã phạm tội 02 lần trở lên; hoặc người đó làm tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; làm nạn nhân tự sát thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
– Ngoài các cách thức xử phạt trên thì người vi phạm còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Vì vậy, có thể thấy rằng khi xâm phạm quyền riêng tư thì mức hình phạt cao nhất theo hướng dẫn của bộ luật hình sự 2015 đó là phạt tù tới 03 năm.