Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

Các loại tranh chấp dân sự phổ biến hiện nay là: tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về hợp đồng dân sự, tranh chấp về bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng, các vấn đề về ly hôn,… Vậy, Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản được quy định thế nào? Hãy nghiên cứu qua nội dung trình bày dưới đây.

Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

1. Tranh chấp dân sự là gì?

Hiện nay, pháp luật không có một khái niệm rõ ràng về tranh chấp dân sự. Tranh chấp dân sự được hiểu là những tranh chấp xảy ra giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự về các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản được pháp luật bảo vệ.

Các loại tranh chấp dân sự phổ biến hiện nay là: tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về hợp đồng dân sự, tranh chấp về bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng, các vấn đề về ly hôn,…

Khi phát sinh vấn đề cần giải quyết tranh chấp dân sự, các bên đều mong muốn tìm được biện pháp giải quyết tranh chấp, đảm bảo tốt nhất quyền lợi của mình, ít tốn kém thời gian và tiền bạc. Vì vậy, lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là vô cùng cần thiết. Hiện nay, phương thức giải quyết tranh chấp dân sự: thương lượng, hòa giải, khởi kiện.

2. Tài sản là gì?

Khái niệm tài sản: Tài sản – với tư cách là khách thể của quan hệ sở hữu – đã được Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 xác định như sau:

“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.

Vật chính là đối tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật và mọi vật khác vói ý nghĩa vật lí ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí).

Với ý nghĩa là một phạm trù pháp lí, vật là bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được một nhu cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên, không phải bất cứ bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật.

Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển… không được coi là vật. Nhưng nếu các vật này được đóng vào bình nước hay được làm nóng, làm lạnh… lại được coi là vật.

Vì vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con người, vật với tư cách là tài sản phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đặc trưng giá trị và trở thành đối tượng của các giao dịch dân sự.

Do sự phát triển của khoa học, công nghệ, khái niệm vật trong khoa học pháp lí cũng được mở rộng.

Ví dụ: Phần mềm trong máy tính hoặc chất thải nếu sử dụng làm nguyên liệu sẽ được coi là vật nhưng bình thường không được coi là vật.

Vật là tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu mà còn bao gồm cả những vật (hay tài sản) chắc chắn sẽ có. Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015) đã xác định loại tài sản này là hoa lợi và lợi tức – đây chính là sự gia tăng của tài sản ữong những điều kiện nhất định. Tương tự, tiền và những loại giấy tờ có giá cũng được xác định là những loại tài sản có tính chất đặc biệt.

Vì vậy, nếu xét dưới góc độ luật học thì khái niệm tài sản được nhìn nhận trong mối quan hệ với quyền sở hữu và được xem xét dưới các khía cạnh đa dạng như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, động sản và bất động sản.

Cần phân biệt tài sản với khái niệm hàng hoá trong khoa học chính tri – kinh tế học (là sản phẩm do con người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng hoá được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hoá đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên là vật (tài sản) nhưng không phải hàng hoá vì không gắn với lao động xã hội. Vì vậy, khái niệm tài sản có phạm vi ngoại diên rộng hơn khái niệm hàng hoá.

3. Khái niệm quyền sở hữu

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì quyền sở hữu là những quyền dân dự đối với tài sản, cụ thể Điều 158 Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận như sau:

“Điều 158. Quyền sở hữu

Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo hướng dẫn của luật”.

Ba quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt hợp thành nội dung của quyền sở hữu quy định trong pháp luật dân sự.

4. Các quyền cơ bản của quyền sở hữu

4.1. Quyền chiếm hữu

Điều 186 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:

“Điều 186. Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu

Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì chủ sở hữu tài sản được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để có thể năm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Điều này có thể được hiểu theo một cách đơn giản và thông thường nhất là sự nắm giữ, quản lý cũng như là chi phối đối với một hay nhiều tài sản. Quyền chiếm hữu sẽ có hai loại đó là: Chiếm hữu ngay tình (chiếm hữu có căn cứ pháp luật) và chiếm hữu không ngay tình (chiếm hữu không có căn cứ pháp luật).

– Thứ nhất, đối với cách thức chiếm hữu ngay tình bao gồm các căn cứ đó là: Chủ sở hữu trực tiếp thực hiện việc chiếm hữu tài sản của mình; hay chủ sở hữu ủy quyền cho người khác thực hiện quản lý tài sản trong phạm vi được ủy quyền; hay quyền chiếm hữu được thực hiện thông qua các giao dịch dân sự đảm bảo phù hợp với ý chí của chủ sở hữu (người đang chiếm hữu hợp pháp thì sẽ chỉ được sử dụng hoặc chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản cho người khác nếu trong trường hợp mà được bên phía chủ sở hữu đồng ý); người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản mà xác định là tài sản trong trường hợp bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định; người phát hiện và thực hiện việc giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện theo hướng dẫn của pháp luật và các trường hợp khác do pháp luật quy định.

– Thứ hai, đối với trường hợp chiếm hữu không ngay tình thì đây được xem là một cách thức chiếm hữu không dựa trên bất kỳ một căn cứ luật định nào. Người chiếm hữu biết hoặc pháp luật buộc họ phải biết là mình đang chiếm hữu không có căn cứ hợp pháp nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm hữu, hoặc tuy về chủ quan họ không biết về việc này nhưng pháp luật buộc họ phải biết. Những trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu biết hoặc phải biết về việc chiếm hữu của mình đang thực hiện là hành vi không ngay tình thường liên quan đến các loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, động sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu.

4.2. Quyền sử dụng

Điều 189 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:

“Điều 189. Quyền sử dụng

Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.

Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo hướng dẫn của pháp luật”.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì quyền sử dụng là quyền quyền trong việc khai thác công dụng, cũng như hưởng các hoa lợi, lợi tức của tài sản. Có thể hiểu một cách đơn giản, quyền sử dụng của chủ sở hữu tài sản là việc khai thác cũng như việc hưởng lợi ích từ khối tài sản khai thác được trong phạm vi pháp luật cho phép. Về nguyên tắc, chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây tổn hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật nên có những trường hợp chủ sở hữu không đủ trình độ chuyên môn để sử dụng tài sản là các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Ví dụ như việc vận hành, sử dụng xe ô tô, các dây truyền máy móc công nghiệp… trong trường hợp này, chủ sở hữu phải thông qua người thứ ba để thực hiện quyền sử dụng tài sản thì mới khai thác được các lợi ích vật chất, tính năng của tài sản. Cũng như quyền chiếm hữu, quyền sử dụng không chỉ thuộc về chủ sở hữu tài sản mà ở đây còn thuộc về những người không phải chủ sở hữu nhưng được chủ sở hữu giao quyền hoặc theo hướng dẫn của pháp luật. Có thể nói, việc sử dụng tài sản là một quyền năng cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn đối với chủ sở hữu tài sản.

4.3. Quyền định đoạt

Quyền định đoạt là một trong các quyền năng của chủ sở hữu để quyết định số phận của tài sản. Căn cứ theo Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền định đoạt là quyền thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữ, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.

Chủ sở hữu tài sản thực hiện quyền định đoạt của mình trên hai phương diện: Thứ nhất, định đoạt về số phận thực tiễn của tài sản như tiêu dùng hết, hủy bỏ hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản; thứ hai, định đoạt về số phận pháp lý của tài sản là việc làm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản từ người này sang người khác.

Thông thường, định đoạt số phận pháp lý đối với tài sản phải thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sở hữu như bán, trao đổi, tặng cho, thừa kế… thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có thể tiêu dùng hết; chuyển quyền chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi giữ); quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian (trong hợp đồng cho thuê, cho mượn) hoặc chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người khác bằng hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho…

Việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Ví dụ, tiêu dùng hết tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản đó; khi bán tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu của người bán đối với tài sản nhưng lại làm phát sinh quyền sở hữu về tài sản đối với người mua.

Trong hai cách thức định đoạt tài sản trên cho thấy: Việc định đoạt số phận thực tiễn của tài sản thì chủ sở hữu chỉ cần bằng hành vi của mình tác động trực tiếp lên tài sản, nhưng việc định đoạt số phận pháp lý của tài sản thì chủ sở hữu phải thiết lập với một chủ thể khác một quan hệ pháp luật dân sự. Đối với cách thức định đoạt số phận pháp lý của tài sản, Bộ luật Dân sự quy định: Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi dân sự – nghĩa là người đó phải có trọn vẹn tư cách chủ thể. Trong những trường hợp tài sản ít giá trị, việc thực hiện quyền định đoạt có thể bằng phương thức đơn giản như thỏa thuận miệng, chuyển giao ngay… nhưng trong những trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục thì phải tuân theo những quy định đó (Điều 193 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản, Bộ luật Dân sự đã quy định việc ủy quyền định đoạt. Chủ sở hữu có thể ủy quyền cho người khác định đoạt tài sản, người được ủy quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu.

Tuy vậy, quyền định đoạt không có nghĩa tuyệt đối, trong những trường hợp nhất định mà pháp luật ràng buộc chủ thể có quyền định đoạt phải tuân theo những quy định để tránh vi phạm Hiến pháp và pháp luật, vì lợi ích chung của xã hội và để bảo đảm ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định. Điều 196 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định việc hạn chế quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Theo đó, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu sẽ bị hạn chế khi những tài sản đem bán, đổi là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa thì Nhà nước (tổ chức, cá nhân theo luật định) có quyền ưu tiên mua. Trong trường hợp đó người bán phải giành quyền ưu tiên mua cho tổ chức, cá nhân này.

Mặc dù vậy, trong thực tiễn, có trường hợp không phải là chủ sở hữu, chủ sở hữu không ủy quyền, việc định đoạt tài sản có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo các quy định của pháp luật những người đó vẫn có quyền định đoạt tài sản, chẳng hạn như: Cơ quan, tổ chức bán đấu giá theo hướng dẫn của pháp luật, chấp hành viên kí hợp đồng bán đấu giá để thi hành án; chủ hiệu cầm đồ được bán tài sản nếu hết thời hạn đã thỏa thuận mà người vay không trả được tiền vay.

5. Quyền khác đối với tài sản

Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác. Quyền khác đối với tài sản bao gồm:

  • Quyền đối với bất động sản liền kề
  • Quyền hưởng dụng
  • Quyền bề mặt

6. Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản

Tài sản mà cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được quyển sở hữu, sử dụng rất đa dạng, có thể bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá trị và các quyền tài sản. Tài sản đó có thể được biểu hiện ở dạng động sản hoặc bất động sản. Các loại tài sản đó đều có thể trở thành đối tượng của các tranh chấp dân sự và pháp luật phải bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu.

Các tranh chấp về quyền sở hữu tài sản thuộc thẩm quyển Tòa án bao gồm các tranh chấp về quyển chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản hoặc tranh chấp về bồi thường tổn hại đốì với tài sản.

Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Điều 163 và 164 Bộ luật dân sự năm 2015 còn quy định:

“2. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình.”

“1. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật…”.

Một trong những phương tiện bảo vệ quyền sở hữu rất hiệu quả là kiện ra Tòa án.

Do loại tài sản có thể trở thành đối tượng tranh chấp quyển sỏ hữu rất phong phú, có những loại tài sản có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống kinh tế, xã hội thì ngoài những quy định chung trong Bộ luật dân sự năm 2005 còn được Nhà nước ban hành văn bản pháp luật nhằm cụ thể hóa hơn nữa và đôi khi Cần cả những thốhg kê khoa học về tình trạng tranh chấp để dùng trong công tác nghiên cứu. Vì vậy, khi Tòa án thụ lý giải quyết loại tranh chấp quyền sồ hữu thì nếu là các tài sản thông thường chỉ cần ghi trích yếu trong bản án là “tranh chấp quyền sở hữu”, đối vối tài sản có ý nghĩa đặc biệt như nhà đất thì có thể ghi cụ thể hơn đó là “tranh chấp quyền sở hữu nhà” hoặc tránh chấp mốc giới ngăn cách thì có thể ghi “tranh chấp quyền sở hữu đối với mốc giới ngăn cách nhà đất”.

Cần chú ý, nếu việc xâm phạm sở hữu đến mức độ trở thành tội phạm thì không thụ lý, xét xử vụ án dân sự.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com