Trẻ em có quyền riêng tư không? Trẻ em bao nhiêu tuổi thì có quyền riêng tư?

Quyền riêng tư là một trong những quyền cơ bản của con người và được pháp luật bảo vệ. Không ai được quyền xâm phạm đến quyền riêng tư của người khác nếu chưa được sự cho phép của người đó. Quyền riêng tư có thể là riêng tư về đời sống, bí mật cá nhân, bí mật gia đình,…. Vậy Trẻ em có quyền riêng tư không? Trẻ em bao nhiêu tuổi thì có quyền riêng tư? Sau đây hãy cùng Luật LVN Group nghiên cứu chi tiết thông qua nội dung trình bày sau !!
Trẻ em có quyền riêng tư không? Trẻ em bao nhiêu tuổi thì có quyền riêng tư?

1. Quyền trẻ em là gì?

Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn, mà các em là những thành viên Tham gia tích cực vào quá trình phát triển của chính mình.

2. Quyền riêng tư của trẻ em là gì?

Quyền riêng tư là một trong những quyền cơ bản, liên quan mật thiết đến sự tự tôn và phẩm giá con người. “Sự riêng tư trao cho mỗi cá nhân một không gian để là chính mình mà không bị người khác phán xét một cách vô cớ, cho phép mỗi người suy nghĩ một cách tự do mà không bị kỳ thị hoặc phân biệt, đối xử, cũng như khả năng kiểm soát ai được biết gì về bản thân mình”.

Quyền riêng tư đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948 (Điều 12) và Công ước các quyền chính trị, dân sự, 1966 (Điều 17): “Không ai bị can thiệp tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự, uy tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm hại tương tự như vậy”.

Quyền riêng tư của trẻ em là một khía cạnh của quyền riêng tư, được khẳng định tại Điều 16 Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989: “Không trẻ em nào chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp pháp vào việc riêng tư, gia đình, nhà cửa hoặc thư tín cũng như sự công kích bất hợp pháp vào danh dự và thanh danh của các em”; “Trẻ em có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp hay công kích như vậy”.

3. Trẻ em có quyền riêng tư không? Trẻ em bao nhiêu tuổi thì có quyền riêng tư?

3.1 Trẻ em có quyền riêng tư không?

Như đã biết trên thực tiễn mọi người đều có quyền bảo vệ quyền riêng tư của bản thân. Do đó mà trẻ con cũng vậy; các em hoàn toàn có quyền được bảo vệ quyền riêng tư. Bời vậy, mà dù là còn nhỏ hay đã lớn thì bố mẹ đều không thể tự ý xâm phạm các quyền riêng tư của các con.

Dù là trẻ con; chưa thành niên; đã thành niên thì đều có quyền được bảo vệ bí mật riêng tư. Từ hình ảnh cá nhân; tên tuổi; đến điện thoại hay tin nhắn. Tất cả những vấn đề này pháp luật đều quy định rõ ràng để bảo vệ quyền riêng tư của mỗi người.

3.2 Trẻ em bao nhiêu tuổi thì có quyền riêng tư?

Theo Hiến pháp năm 2013, trẻ em (người dưới 16 tuổi) được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em; nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em (khoản 1, Điều 37).

Luật Trẻ em năm 2016, có hiệu lực từ ngày 1-6-2017; quy định trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân; và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư (Điều 21).

Vì vậy, chiếu theo hướng dẫn của pháp luật hiện hành thì trẻ em là người dưới 16 tuổi. Với quy định này, ta có thể hiểu rằng; trẻ em từ khi sinh ra cho đến 16 tuổi thì đều có quyền riêng tư; và yêu cầu được bảo vệ quyền riêng tư này.

4. Bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em

Bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em là trách nhiệm của nhiều chủ thể, trong đó đóng vai trò trung tâm, chủ đạo là Nhà nước. Theo đó, bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em là việc Nhà nước chủ động ngăn chặn sự vi phạm đến quyền này từ phía các bên thứ ba, thể hiện ở việc Nhà nước chủ động xây dựng các biện pháp và thực hiện cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em.

4.1. Đặc điểm của bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em

– Nhà nước có nghĩa vụ ngăn chặn hành vi của các cá nhân có thẩm quyền, các thể nhân hay pháp nhân khác xâm phạm tùy tiện và bất hợp pháp vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, danh dự, uy tín và tất cả các khía cạnh khác thuộc phạm trù quyền riêng tư của trẻ em;

– Những can thiệp vào quyền riêng tư của trẻ em phải được quy định trong pháp luật và phải phù hợp với các quy định khác của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Những can thiệp bất hợp pháp và cả những can thiệp hợp pháp nhưng không phù hợp với các quy định của ICCPR đều bị xem là tùy tiện và phải bị xử lý;

– Các quốc gia chỉ nên và được phép thu thập thông tin về đời tư của trẻ em khi những thông tin đó là thiết yếu để bảo vệ lợi ích chung của xã hội như được thừa nhận trong ICCPR. Tính toàn vẹn và bảo mật của thư tín phải được bảo đảm cả về pháp lý và thực tiễn;

– Quốc gia có trách nhiệm ban hành các quy định của pháp luật cần thiết để bảo vệ danh dự và nhân phẩm của trẻ em, bao gồm những quy định cho phép mọi người có khả năng tự bảo vệ trước những sự can thiệp hoặc xâm hại bất hợp pháp hay tùy tiện vào danh dự, uy tín của mình.

4.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em

Ngày 20/2/1990, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xuyên suốt các bản Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946 cho đến Hiến pháp hiện hành năm 2013, quyền trẻ em đều được ghi nhận.

Luật Trẻ em năm 2016 đã có quy định cụ thể về quyền riêng tư của trẻ em: “Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư” (Điều 21). Luật Báo chí năm 2016 cũng cấm đăng, phát thông tin có nội dung “ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của trẻ em” (Khoản 9 Điều 9).

Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em, ghi nhận: “Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê cửa hàng; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ gửi tới cho cá nhân trẻ em” (Điều 33).

Về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em, Luật Trẻ em năm 2016 xác định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, gửi tới sản phẩm, dịch vụ thông tin, truyền thông và tổ chức các hoạt động trên môi trường mạng phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn và bí mật đời sống riêng tư cho trẻ em theo hướng dẫn của pháp luật” (Khoản 2, Điều 54). Đồng thời, hành vi công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em là hành vi bị nghiêm cấm (Điều 6).

Luật An ninh mạng năm 2018 cũng quy định về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng (Điều 30): “Trẻ em có quyền được bảo vệ, quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội, quyền vui chơi, giải trí, quyền bí mật đời sống riêng tư và các quyền trẻ em khác khi tham gia trên môi trường mạng” và “chủ quản hệ thống thông tin, đơn vị, tổ chức gửi tới dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet có trách nhiệm kiểm soát nội dung thông tin trên hệ thống thông tin hoặc trên dịch vụ do đơn vị, tổ chức gửi tới, không để gây nguy hại cho trẻ em, xâm phạm đến trẻ em, quyền trẻ em; tiến hành ngăn chặn việc chia sẻ thông tin, xóa bỏ thông tin có nội dung gây nguy hại cho trẻ em, xâm phạm đến trẻ em, quyền trẻ em” (khoản 2). Các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ trẻ em trên không gian mạng không chỉ là các chủ thể có thẩm quyền, mà còn là “đơn vị, tổ chức, cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em và cá nhân khác liên quan có trách nhiệm bảo đảm quyền của trẻ em” đều có trách nhiệm bảo vệ trẻ em khi tham gia không gian mạng theo hướng dẫn của pháp luật về trẻ em.

Việc xử lý vi phạm quyền riêng tư của trẻ em trên môi trường mạng internet được quy định trong Nghị định số 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện, sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 49/2017/NĐ-CP. Theo đó, phạt tiền đối với các hành vi phạm về trang thông tin điện tử; tổ chức, doanh nghiệp gửi tới dịch vụ mạng xã hội liên quan đến tiết lộ bí mật đời tư hoặc bí mật khác khi chưa được sự đồng ý của cá nhân, tổ chức có liên quan trừ trường hợp pháp luật quy định.

Khoản 2 Điều 51 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định về phạt tiền với hành vi tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư; sử dụng các phương tiện thông tin hoặc phổ biến, phát tán tờ rơi, nội dung trình bày, hình ảnh, âm thanh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của các thành viên trong gia đình, trong đó có trẻ em.

Bộ luật Hình sự hiện hành quy định hành vi thu lợi bất chính từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng; gây tổn hại từ 100 triệu đến dưới 500 triệu đồng hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín của đơn vị, tổ chức, cá nhân khi thực hiện các hành vi mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hóa thông tin riêng hợp pháp của đơn vị, tổ chức, cá nhân (trong đó có trẻ em) trên mạng máy tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó sẽ bị phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (Điều 288).

Bên cạnh đó, hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chịu hình phạt về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn điện thoại, thư, điện tín, hoặc các cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác, hoặc tội làm nhục người khác theo hướng dẫn của Bộ luật Hình sự.

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quyền nhân thân (gồm quyền riêng tư) là quyền dân sự gắn với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác trừ các trường hợp luật quy định; danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em, trách nhiệm liên đới của người có thẩm quyền đã được ghi nhận: người đứng đầu đơn vị, tổ chức, chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra tình trạng vi phạm nghiêm trọng quyền trẻ em, hoặc không hỗ trợ, can thiệp, xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm quyền trẻ em. Đồng thời, quy định xử lý nghiêm đối với đơn vị, tổ chức, cá nhân, kể cả cha mẹ, người chăm sóc trẻ em khi có hành vi vi phạm pháp pháp luật về trẻ em, nhất là các hành vi xâm hại trẻ em, bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài các vụ việc vi phạm quyền trẻ em với phương châm “đúng người, đúng việc, đúng thẩm quyền, đúng trách nhiệm”.

5. Xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em thì bị xử lý thế nào?

Hành vi bố mẹ xâm phạm quyền riêng của con; còn có thể dẫn đến việc bố mẹ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình hiện hành không căn cứ vào tổn hại do hành vi xâm phạm bí mật; an toàn thư tín; điện thoại, … gây ra để truy cứu trách nhiệm hình sự người vi phạm. Mà chỉ cần xác định đủ các yếu tố cấu thành trên là tội phạm đã hoàn thành. Những hậu quả khác do thư tín; điện thoại; điện tín bị lộ; bị chiếm đoạt; bị xâm phạm chỉ có ý nghĩa trong việc xác định mức độ nghiêm trọng; của hành vi phạm tội để quyết định hình phạt.

Tại điều 159 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, 2019 quy định; về mức phạt tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín; hoặc cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác như sau:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật; hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo; phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác; được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ cách thức nào;
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin; nội dung của thư tín, điện báo;; telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín; telex, fax hoặc cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.”

Trên đây là nội dung trình bày về Trẻ em có quyền riêng tư không? Trẻ em bao nhiêu tuổi thì có quyền riêng tư? mời bạn đọc thêm cân nhắc và nếu có thêm những câu hỏi về nội dung trình bày này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với LVN Group theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. LVN Group đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com