Vấn đề quyền con người trong chính sách về sở hữu trí tuệ 

Thời gian qua, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ ở nước ta đã được xây dựng, sửa đổi, bổ sung, qua đó, tạo nền tảng pháp lý cơ bản điều chỉnh các vấn đề có liên quan đến việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Hiện nay, trước yêu cầu quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ cần tiếp tục được hoàn thiện để bảo đảm thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế, thúc đẩy việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học – công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đồng thời với đó là lưu tâm đến vấn đề quyền con người trong chính sách về sở hữu trí tuệ. Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ gửi tới một số thông tin liên quan đến vấn đề quyền con người trong chính sách về sở hữu trí tuệ. 

Quyền con người về sở hữu trí tuệ

1. Quyền con người là gì ? 

Quyền con người (Human rights, Droits de L’Homme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

Quyền con người không những được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal right). Theo đó:

Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

2. Đặc điểm của quyền con người. 

Quyền con người có một số đặc điểm sau:

  • Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ quyền con người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;
  • Tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, truyền thống văn hoá, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội;
  • Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người. Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con người gắn liền với nhà nước và pháp luật – là những sự kiện mang tính giai cấp sâu sắc. Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyền và nội dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người tị nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ theo thủ tục tố tụng hình sự… Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là quyển của cá nhân. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyền dân sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (quyền sở hữu, quyền công tác, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hoá…).

Quyền con người được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.

Ở nước ta, quyền con người được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, các luật về bầu cử, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… Những nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người bao gồm:

  • Nguyên tắc dân tộc tự quyết – nguyên tắc nền tảng, vì một dân tộc không có quyền tự quyết thì không thể nói đến quyền con người của từng cá nhân thành viên của dân tộc đó;
  • Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 quy định “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội…,
  • Nguyên tắc bình đẳng giới – nguyên tác đã được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội..;
  • Nguyên tắc cấm hồi tố trong luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 4999, theo đó sẽ không áp dụng một điều luật hay quy định về một tội danh mới, hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới, hoặc hạn chế phạm vi áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

3. Mối quan hệ giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền con người. 

Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền con người được thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là cách thức bảo vệ các quyền cơ bản của con người một cách hiệu quả. Điều này được thể hiện qua hai phương diện, cụ thể: (i) việc pháp luật thừa nhận quyền sở hữu cho chuyên gia, chủ sở hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền này bằng cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Pháp luật sở hữu trí tuệ công nhận chủ thể sáng tạo là chủ sở hữu đối với các sản phẩm sáng tạo của mình, từ đó cho phép chủ sở hữu tài sản trí tuệ được thực hiện trọn vẹn quyền năng sở hữu của mình, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Việc công nhận và bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ là cách thức bảo đảm cho quyền sở hữu của con người được thực thi một cách hiệu quả và trọn vẹn nhất; (ii) bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là cách thức để bảo vệ một trong những quyền cơ bản của con người “quyền được bảo hộ các quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ hoạt động sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật của chính mình”. Pháp luật sở hữu trí tuệ góp phần đảm bảo thực hiện trên thực tiễn: quyền được tự do nghiên cứu, sáng tạo và quyền được hưởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả bên cạnh việc mang lại lợi ích và quyền lợi cho chủ thể sáng tạo, chủ sở hữu quyền, còn có ý nghĩa rất lớn đối với toàn xã hội, đó là thúc đẩy hoạt động sáng tạo, nghiên cứu diễn ra tích cực hơn.

Thứ hai, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng làm phát sinh những thách thức nhất định đối với việc bảo vệ quyền con người. Việc thừa nhận và bảo hộ các quyền mang tính độc quyền cho chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể dẫn đến tình trạng lạm dụng độc quyền từ các chủ thể này. Mặt khác, bảo hộ quá mức các quyền mang tính độc quyền đối với tác phẩm cũng có những tác động tiêu cực nhất định đến quyền tiếp cận các tri thức của nhân loại, các lợi ích của tiến bộ của khoa học. Nếu không có những giải pháp thích hợp thì điều này có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động học tập và nghiên cứu do khó khăn về cân nhắc các nguồn tài liệu, tiếp cận tri thức của nhân loại, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển, nơi mà nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động giáo dục còn chưa cao.

4. Pháp luật về bảo đảm quyền con người thông qua chế định về quyền sở hữu trí tuệ.

Tư tưởng về quyền con người đã được hình thành từ thời tiền sử, tuy nhiên, được thừa nhận trên bình diện quốc tế thì quyền con người được thể hiện rõ nhất lần đầu tiên là trong tuyên bố sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai trong Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền con người năm 1948 và sau đó là Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (ICESCR), v.v. Đến Tuyên bố năm 1986 của các quốc gia thành viên của Liên minh Berne về bảo vệ tác phẩm văn học và nghệ thuật đã chính thức khẳng định quyền chuyên gia được xác lập trên cơ sở quyền con người và công lý. Bên cạnh đó, khi bình luận về Điều 15(1) Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966, Ủy ban các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của Liên hợp quốc khẳng định, quyền được bảo hộ các lợi ích tinh thần và vật chất phát sinh từ hoạt động trí tuệ là một quyền con người, phát sinh từ giá trị và nhân phẩm của con người nói chung. Do đó, có thể thấy, quyền sở hữu trí tuệ là một tất yếu không thể thiếu của quyền con người.

Ở Việt Nam, ý tưởng về bảo hộ sở hữu trí tuệ mà trước tiên là quyền chuyên gia đã được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946[1]. Năm 1986 đánh dấu một mốc mới trong hoạt động bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và quyền chuyên gia nói riêng khi Chính phủ ban hành Nghị định số 142/CP, văn bản riêng biệt đầu tiên để điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền chuyên gia. Tuy nhiên, hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ chính thức bắt đầu có dấu ấn khi Quốc hội ban hành Bộ luật Dân sự năm 1995[2]. Đặc biệt, từ vàonăm 2007 khi Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và khi Quốc hội ban hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì hoạt động này trở nên sôi động với tất cả các dạng tài sản trí tuệ được bảo hộ, bao gồm: bản quyền chuyên gia và các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ và chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng mới…Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định song phương liên quan đến quyền chuyên gia như: Hiệp định thiết lập quan hệ quyền chuyên gia Việt Nam – Hoa Kỳ năm 1997; Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ năm 1999; Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2000. Năm 2004, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập để trở thành thành viên của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật đã được ký tại Thụy Sĩ năm 1886 và Chủ tịch nước đã ký quyết định gia nhập Công ước Roma bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng được thông qua tại Italia năm 1961.Theo cam kết tại các Hiệp định song phương với Hoa Kỳ, Thụy Sỹ và yêu cầu của WTO, Việt Nam đã gia nhập Công ước Giơ-ne-vơ, Công ước Brúc-xen và tuân thủ các quy định của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS).

Đánh giá về chính sách về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, một số đối tác cần thiết trong kinh tế, đầu tư, thương mại trong quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam là EU, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Mỹ và Úc đều có chung nhận định rằng Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ nhưng vấn đề thực thi là một điểm yếu cần phải khắc phục.

Trên đây là nội dung nội dung trình bày của Luật LVN Group về “Vấn đề quyền con người trong chính sách về sở hữu trí tuệ”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý bạn đọc có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian cân nhắc nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com