Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong ứng phó đại dịch Covid-19

Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã nhanh chóng đưa ra các chính sách, biện pháp đồng bộ, hiệu quả. Trong đó, kiểm soát dịch bệnh là ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ sức khỏe, bảo đảm quyền tối thượng là quyền được sống của người dân. Với Việt Nam, Chính sách nhất cửa hàng của Nhà nước Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, được thể hiện xuyên suốt trong Hiến pháp, pháp luật và các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ gửi tới một số thông tin liên quan đến việc bảo đảm quyền con người trong ứng phó đại dịch Covid-19 của Việt Nam. 

Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong ứng phó đại dịch Covid-19

1. Quyền con người là gì ? 

Quyền con người (Human rights, Droits de L’Homme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

Quyền con người không những được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal right). Theo đó:

Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

2. Đặc điểm của quyền con người. 

Quyền con người có một số đặc điểm sau:

  • Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ quyền con người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;
  • Tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, truyền thống văn hoá, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội;
  • Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người. Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con người gắn liền với nhà nước và pháp luật – là những sự kiện mang tính giai cấp sâu sắc. Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyền và nội dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người tị nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ theo thủ tục tố tụng hình sự… Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là quyển của cá nhân. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyền dân sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (quyền sở hữu, quyền công tác, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hoá…).

Quyền con người được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.

Ở nước ta, quyền con người được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, các luật về bầu cử, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… Những nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người bao gồm:

  • Nguyên tắc dân tộc tự quyết – nguyên tắc nền tảng, vì một dân tộc không có quyền tự quyết thì không thể nói đến quyền con người của từng cá nhân thành viên của dân tộc đó;
  • Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 quy định “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội…,
  • Nguyên tắc bình đẳng giới – nguyên tác đã được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội..;
  • Nguyên tắc cấm hồi tố trong luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 4999, theo đó sẽ không áp dụng một điều luật hay quy định về một tội danh mới, hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới, hoặc hạn chế phạm vi áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

3. Nghĩa vụ quốc gia về quyền con người khi ứng phó với đại dịch.

Dịch COVID-19 không chỉ cướp đi sinh mệnh và ảnh hưởng đến sức khoẻ của hàng chục triệu người mà đã gây nên nhiều tác động tiêu cực đến đời sống và quyền cơ bản của mọi cá nhân, cộng đồng trên toàn thế giới, đáng kể là tình trạng suy thoái kinh tế, gia tăng kỳ thị, bất bình đẳng, đói nghèo, mất việc làm(5)v.v.. Dịch COVID-19 ảnh hưởng đến việc thụ hưởng tất cả các quyền con người cơ bản, tuy nhiên, quyền chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất là quyền về sức khỏe. Chính vì vậy, các nỗ lực nhằm phòng, chống lại dịch COVID-19 của các quốc gia hiện nay chính là để bảo đảm quyền sống, đặc biệt là quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho con người.

Quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe được quy định tại Điều 25 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Điều 12 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Điều 24 của Công ước quyền trẻ em, Điều 12 của Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi cách thức phân biệt đối xử với phụ nữ và Điều 25 của Công ước về quyền của người khuyết tật. Đây là những điều ước cơ bản về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn và có nghĩa vụ pháp lý trong việc thực hiện.

Để ứng phó với tình trạng khẩn cấp về y tế công, luật quốc tế về quyền con người quy định, kể cả trong bối cảnh của đại dịch, các quốc gia vẫn cần tuân thủ các nghĩa vụ cơ bản nhằm bảo đảm sự tôn trọng phẩm giá và quyền con người. Tuy nhiên, các quốc gia được phép thực hiện một số biện pháp ứng phó với dịch bệnh như: cách ly xã hội, phong tỏa, đóng cửa biên giới hay thậm chí là ban bố tình trạng khẩn cấp. Để thực hiện những biện pháp này các quốc gia có thể hạn chế một số quyền con người hay tạm thời rút lui một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực thi một số quyền con người nhất định như quyền tự do đi lại, quyền về việc làm, quyền tự do kinh doanh, quyền được học tập, quyền tự do hội họp, v.v.. Mặt khác, không phải tất cả các quyền con người đều có thể bị hạn chế,  kể cả khi tuyên bố tình trạng khẩn cấp, quốc gia vẫn không được phép rút lui nghĩa vụ thực hiện với tất cả các quyền. Chẳng hạn, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền không bị tra tấn và trừng phạt hay đối xử vô nhân đạo, hạ nhục, quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị giam giữ vì lý do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng, quyền được tiếp cận với lương thực, thực phẩm, nước uống và chăm sóc y tế ban đầu, v.v.. là những quyền luôn cần được bảo đảm, kể cả trong tình trạng khẩn cấp về y tế. Cần lưu ý rằng, các quyết định mà quốc gia đưa về hạn chế quyền để nhằm mục đích cách ly, cô lập để bảo vệ nền y tế công hay việc tuyên bố tạm rút lui nghĩa vụ trong tình trạng khẩn cấp quốc gia về y tế cần được xem xét dựa trên tính hợp pháp, tính cần thiết và sự cân đối, phù hợp. Để gửi tới hướng dẫn cụ thể cho các quốc gia về nguyên tắc, điều kiện thực hiện hạn chế quyền hay tạm rút lui nghĩa vụ thực hiện quyền của nhà nước, Hội đồng kinh tế và xã hội Liên Hợp quốc đã thông qua Nguyên tắc Siracusa (1984). 

4. Việt Nam đảm bảo quyền con người trong đại dịch Covid-19. 

Bảo đảm quyền được được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người dân

Quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền hiến định được quy định tại Điều 14 của Hiến pháp 2013, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (1989), Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm (2007), Luật Khám chữa bệnh (2009)  và nhiều quy định pháp luật liên quan. Đại dịch COVID-19 là một vấn đề y tế khẩn cấp toàn cầu đe doạ đến tính mạng và sức khỏe của mọi cá nhân trong xã hội. Trong thời gian qua, Việt Nam đã huy động sự tham gia của toàn hệ thống chính trị và nhân dân nhằm triển khai thực hiện một loạt các biện pháp y tế công. Những ứng phó với đại dịch COVID-19 của Chính phủ Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với nghĩa vụ thực hiện quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của người dân trong tình huống khẩn cấp y tế dựa theo yêu cầu cơ bản của quyền này là bảo đảm: 1) tính sẵn có của cơ sở, hàng hóa, dịch vụ y tế; 2) khả năng tiếp cận với cơ sở, hàng hóa, dịch vụ, thông tin y tế với chi phí hợp lý và không có sự phân biệt đối xử với bất kỳ nhóm đối tượng nào; 3) phù hợp về mặt y học và với điều kiện đặc thù về kinh tế, xã hội, văn hóa của từng quốc gia; và 4) bảo đảm nền y tế có chất lượng(11). Căn cứ, để bảo đảm quyền về sức khoẻ trong ứng phó với dịch COVID-19, Chính phủ Việt Nam đã chủ động áp dụng một loạt biện pháp phòng chống dịch bệnh, có thể kể đến một số biện pháp sau:

– Triển khai các biện pháp dự phòng lây nhiễm: Thủ tướng Chính phủ đã thông qua các Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 11-3-2020 về việc tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống dịch COVID-19 trong tình hình mới(12) và Chỉ thị số16 CT-TTg ngày 31-3-2020 về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19(13) để thực hiện các chiến lược ngăn chặn, phát hiện, cách ly, khoanh vùng, dập dịch với các hành động cụ thể như: kiểm soát, cách ly bắt buộc với người nhập cảnh, đóng cửa trường học, hạn chế đi lại, khai báo y tế, cách ly toàn xã hội, xử lý nguồn lây bệnh, ổ dịch, quản lý lây nhiễm chéo tại cơ sở y tế, quản lý nguy cơ lây nhiễm ở các nhóm nguy cơ cao và trường hợp cần cách ly, v.v.. Chính phủ cũng phối hợp với Bộ Y tế và các bộ, ngành, địa phương liên quan thực hiện quyết liệt việc bảo đảm để mọi người dân đều được tiếp cận với các cơ sở, dịch vụ y tế và vật tư y tế đặc biệt là khẩu trang, bảo hộ, cồn rửa tay sát khuẩn khi dịch bệnh xảy ra. 

– Triển khai các biện pháp điều trị: bệnh COVID-19 không có Vắc Xin phòng ngừa hay thuốc điều trị, vì vậy, việc xây dựng phác đồ điều trị được tập trung vào điều trị suy hô hấp, cập nhật những khuyến cáo mới nhất theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới. Bộ Y tế Việt Nam đã kịp thời công bố các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị mới cho các cơ sở điều trị với các văn bản chỉ đạo như: Quyết định 125/QĐ-BYT ngày 16-1-2020 về việc Hướng dẫn Chẩn đoán và điều trị bệnh viêm phổi cấp do chủng vi rút Corona mới (nCoV), Quyết định 181/QĐ-BYT ngày 21-1-2020 của Bộ Y tế về việc Hướng dẫn tạm thời giám sát và phòng chống bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (nCoV) (14) v.v..

Mặt khác, để bảm đảm việc tiếp cận điều trị cho tất cả mọi người, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định 219/QĐ-BYT bổ sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (nCov) gây ra vào danh mục các bệnh truyền nhiễm nhóm A – là bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm theo hướng dẫn tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007. Theo đó, những người mắc bệnh dịch này sẽ được khám và điều trị miễn phí. Trong bối cảnh ở nhiều quốc gia trên thế giới bệnh nhân phải tự chi trả mọi chi phí điều trị COVID-19 thì đây là một nỗ lực đáng ghi nhận của Chính phủ Việt Nam nhằm bảo đảm quyền được tiếp cận điều trị COVID-19 cho tất cả bệnh nhân.

Quyền tiếp cận thông tin – yếu tố cần thiết để kiểm soát dịch bệnh COVID-19

Tiếp cận thông tin là yếu tố cực kỳ cần thiết trong phòng ngừa dịch bệnh COVID-19. Bài học thực tiễn ở một số quốc gia trên thế giới cho thấy việc che dấu, thiếu minh bạch thông tin về bệnh có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng trong kiểm soát dịch. Nhận thức rõ tầm cần thiết của tiếp cận thông tin liên quan đến dịch COVID-19, ngày 19-3-2020 các chuyên gia quốc tế, trong đó có Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp quốc về thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do quan điểm và biểu đạt đã ra tuyên bố chung kêu gọi các chính phủ cần gửi tới thông tin chính xác, nhanh chóng và rộng rãi về dịch bệnh(15).

Để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về dịch bệnh cho người dân, Chính phủ, Bộ Y tế đã có chủ trương ngay từ đầu là Việt Nam luôn công khai tình hình của dịch với người dân và thế giới. Việt Nam xác định nguyên tắc đầu tiên trong công cuộc phòng, chống dịch COVID-19 là công khai, minh bạch, không dấu dịch và coi đây là một biện pháp để đẩy lùi dịch bệnh(16). Ngay từ khi dịch COVID-19 bùng phát trên phạm vi toàn cầu, Việt Nam đã áp dụng nhiều phương thức, cấp độ truyền thông khác nhau nhằm bảo đảm tiếp cận và minh bạch thông tin đồng thời cũng tránh gây hoang mang, hoảng loạn trong xã hội. Căn cứ, người dân đã được gửi tới trọn vẹn và cập nhật thông tin về tình hình dịch bệnh ở Việt Nam và trên thế giới, thông tin về các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh qua nhiều phương tiện truyền thông khác nhau, kể cả qua mạng xã hội, tin nhắn điện thoại. Đồng thời, Việt Nam cũng đã triển khai các kênh thông tin để tiếp nhận ý kiến, khuyến cáo của chuyên gia, các bộ ngành và người dân về các đề xuất, sáng kiến phòng ngừa dịch bệnh.

Có thể nói, minh bạch thông tin là một điểm cộng tích cực mà Chính phủ Việt Nam đã thành công trong giai đoạn vừa qua, thông qua đó giúp tạo dựng niềm tin và huy động sự đồng lòng của toàn dân trong ứng phó với đại dịch này.

Đảm bảo quyền an sinh xã hội và hỗ trợ cho cho các nhóm dễ bị tổn thương

Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hợp quốc vì sự phát triển bền vững kêu gọi các quốc gia trên thế giới cam kết để “không ai bị bỏ lại phía sau” trong quá trình phát triển. Cam kết này cần được các quốc gia nỗ lực thực hiện, kể cả trong ứng phó với khủng hoảng của dịch bệnh COVID-19. Theo đó, bên cạnh các biện pháp y tế công về phòng, chống dịch, các quốc gia cần thông qua và thực hiện các chương trình, chính sách hỗ trợ để giảm tác động tiêu cực của dịch COVID-19 lên toàn xã hội, đặc biệt là một số nhóm đối tượng dễ bị tổn thương.

Mặc dù mọi người đều có thể bị lây nhiễm, nhưng xét về mức độ nguy cơ, một số nhóm có thể phải chịu rủi ro nhiễm bệnh và nguy cơ tử vong cao hơn như: người cao tuổi, người có bệnh mãn tính (tim mạch, huyết áp, hen, tiểu đường v.v..), do vậy, nhóm đối tượng này cần được bảo vệ và hỗ trợ để phòng ngừa y tế tốt hơn. Mặt khác, hiện nay các quốc gia đều đang phải thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội, cách ly và thậm chí là phong tỏa để phòng ngừa bệnh dịch. Các biện pháp này có thể gây nên một số ảnh hưởng nhất định đến nhiều nhóm xã hội: trẻ em không được đến trường; người lao động bị cắt giảm hoặc mất việc làm; phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ công tác trong khu vực phi chính thức và trong ngành y tế (70% cán bộ y tế bao gồm y tá, hộ lý trên toàn thế giới là phụ nữ) có thể bị ảnh hưởng đến sinh kế và gặp rủi ro cao về sức khỏe; người khuyết tật gặp khó khăn trong tiếp cận các nhu yếu phẩm thiết yếu do thiếu dịch vụ và nguồn nhân lực hỗ trợ; các nhóm dân tộc thiểu số ở khu vực vùng sâu, vùng xa có thể gặp trở ngại trong việc tiếp cận thông tin, dịch vụ y tế v.v.. Nhận diện rõ các tác động kinh tế và các vấn đề xã hội của dịch bệnh, song song với các ứng phó về y tế, Chính phủ Việt Nam đã ngay lập tức thảo luận về các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết các khó khăn về kinh tế để hỗ trợ người dân cũng như các doanh nghiệp. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu xây dựng nhanh nghị quyết về gói hỗ trợ về an sinh xã hội với tinh thần “người yếu thế không thấy mình bị bỏ rơi”. Nhờ đó, ngày 10-4-2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về hỗ trợ trực tiếp cho người dân gặp khó khăn do COVID-19. Theo Nghị quyết này, chính phủ thực hiện hỗ trợ trước hết cho 5 nhóm đối tượng là: 1) Người lao động hợp đồng phải tạm nghỉ việc không lương do doanh nghiệp gặp khó khăn; 2) người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng công tác nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp; 3) các hộ kinh doanh cá thể có doanh thu khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm tạm ngừng kinh doanh từ 1-4-2020; 4) đối tượng bảo trợ xã hội và người có công với cách mạng; 5) Hộ nghèo, hộ cận nghèo. Để triển khai Nghị quyết này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhất trí với việc chi gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng cho người dân trong dịch COVID-19. Mặt khác, trong thời gian tới, Chính phủ cũng sẽ tiếp tục chỉ đạo thực hiện thêm các biện pháp kích thích kinh tế về tiền tệ và tài khóa với các gói chính sách về tín dụng, giảm thuế, gói giãn, hoãn thuế, phí, lệ phí v.v..

Kiểm soát dịch bệnh là ưu tiên hàng đầu

Năm 2021, năm thứ hai, Việt Nam chịu tác động mạnh mẽ bởi đại dịch Covid-19, đưa tổng số ca mắc Covid-19 lên tới hơn 1,3 triệu người, hơn 27.000 người tử vong, tỷ lệ thất nghiệp đã lên mức 2,52% (tháng 7/2021). Khu vực dịch vụ, nhất là các ngành ngân hàng, du lịch, vận tải, khách sạn, nhà hàng bị ảnh hưởng nặng nề; hơn 70.000 doanh nghiệp đã phải rút khỏi thị trường chỉ riêng trong những tháng đầu năm 2021. Đại dịch đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền của người dân, nhất là sinh hoạt, đi lại, học tập do phải giãn cách xã hội ở nhiều nơi để phòng chống dịch, song các quyền cơ bản của người dân vẫn được bảo đảm, trong đó có quyền tiếp cận các nhu yếu phẩm cần thiết như lương thực, đồ dùng thiết yếu, quyền chăm sóc y tế, giáo dục trực tuyến.  

Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã nhanh chóng đưa ra các chính sách, biện pháp đồng bộ, hiệu quả. Trong đó, kiểm soát dịch bệnh là ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ sức khỏe, bảo đảm quyền tối thượng là quyền được sống của người dân; đồng thời thực hiện hiệu quả, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu tác động của dịch đối với nền kinh tế, duy trì và phục hồi sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm, an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là những người dễ bị tổn thương.

Chính phủ Việt Nam đã ban hành các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, trong đó có các chính sách hỗ trợ tiền mặt trực tiếp cho người lao động bị mất việc, ngừng việc, phải tạm hoãn hợp đồng lao động và tự do như việc ban hành các gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng (năm 2020) và 26.000 tỷ đồng (cho đến tháng 7/2021) dành cho người khó khăn vì dịch Covid-19. Việt Nam cũng đã triển khai nhiều biện pháp bảo đảm quyền tiếp cận, các điều kiện sống cơ bản, tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong xã hội cùng chung tay hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn.

Chính phủ Việt Nam rất coi trọng, chủ trương bảo đảm tiêm vlvnine phòng COVID-19 miễn phí cho người dân theo các đối tượng ưu tiên theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Đến ngày 8/12/2021, Việt Nam đã tiêm gần 130 triệu liều vlvnine COVID-19 cho người dân mặc dù gặp nhiều khó khăn do khan hiếm nguồn cung của thế giới, điều kiện kinh tế còn hạn chế. Chính phủ cũng thành lập Quỹ vlvnine phòng chống COVID-19 với mục tiêu tiếp nhận, quản lý, sử dụng các nguồn tài trợ, hỗ trợ, đóng góp trong nước và ngoài nước để cùng với nguồn lực ngân sách nhà nước mua, nhập khẩu vlvnine, nghiên cứu, sản xuất vlvnine trong nước để tiêm chủng cho người dân, bảo đảm nguồn tài chính bền vững cho việc tiêm vắc-xin phòng COVID-19, bảo đảm quyền y tế. Chính phủ cũng đã thành lập Tổ công tác về ngoại giao vlvnine do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao củ trì để xúc tiến, vận động viện trợ vắc-xin, thuốc điều trị, vật phẩm y tế phòng, chống COVID-19; chuyển giao công nghệ sản xuất vắc-xin, thuốc điều trị từ đối tác song phương, đa phương. Đến nay, hầu hết các đối tác cần thiết và các nước bạn bè truyền thống đã hỗ trợ Việt Nam hàng chục triệu liều vlvnine phòng Covid-19.

Trên đây là nội dung nội dung trình bày của Luật LVN Group về “Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong ứng phó đại dịch Covid-19”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý bạn đọc có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian cân nhắc nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com