1. Thủ tục xét xử tại Toà án:

Nhật bản áp dụng chế độ 2 cấp xét xử : Cấp sơ thẩm và Cấp phúc thẩm.

Toà án cấp sơ thẩm bao gồm: Toà rút gọn, Toà gia đình và Toà cấp quận. Toà gia đình chuyên trách giải quyết các tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình và người chưa thành niên. Toà rút gọn giải quyết các kiện tụng dân sự hoặc hành chính mà giá trị vụ việc không vượt quá 900.000 Yên Nhật; hoặc các vụ án hình sự mà bị cáo bị phạt tiền hoặc bị phạt không quá 15 ngày tù [9]. Toà cấp quận giải quyết sơ thẩm tất cả các vụ việc dân sự, hình sự, hành chính mà không thuộc thẩm quyền giải quyết của 2 toà kể trên.

Toà án có quyền phúc thẩm bao gồm: Toà cấp quận, Toà Phúc thẩm và Toà án tối cao. Toà cấp quận có thẩm phúc thẩm chỉ đối với bản án sơ thẩm dân sự của Toà rút gọn , trong khi đó Toà Phúc thẩm có quyền phúc thẩm đối với bản án của Toà án quận, Toà Gia đình  và bản án hình sự sơ thẩm của Toà rút gọn. Toà án tối cao có quyền phúc thẩm đối với các bản án của Toà Phúc thẩm. Trường hợp ngoại lệ , nếu như trong một vụ án dân sự được giải quyết ở Toà cấp quận , nếu như cả 2 bên đều đồng ý bỏ qua kháng cáo lên Toà Phúc thẩm mà kháng cáo trực tiếp lên Toà tối cao thì Toà tối cao có quyền phúc thẩm bản án của Toà án quận.

Nhật bản có 50 Toà cấp quận và Toà Gia đình nằm ở các trung tâm hành chính của tỉnh , thành phố trực thuộc trung ương, 438 Toà rút gọn đặt ở các địa phương , và 8 Toà Phúc thẩm đặt ở 8 thành phố lớn như Tokyo, Osaka , Nagoya , Hiroshima, Fukuoka, Sendai, Sapporo và Takamastu. Toà án tối cao đặt trụ sở tại Tokyo.

Thẩm quyền:  Theo Luật tổ chức Toà án thì các vụ tranh chấp thương mại có thể được đưa ra Toà án cấp thấp nhất có thẩm quyền về địa hạt – Toà giản lược – nếu tổng giá trị của vụ việc đưa ra xét xử không quá 900.000 yên (tương đương với 1,500 USD) (Điều 33, khoản 1(1) luật Tổ chức Toà án). Có 575 Toà án thuộc loại này ở Nhật. Nếu tổng giá  trị của vụ tranh chấp quá giới hạn xét xử của Toà giản lược thì các bên có thể lựa chọn đưa vụ việc ra giải quyết tại Toà án khu vực (Toà án quận). ở Nhật có 50 loại Toà án có thẩm quyền chung thuộc loại này. Tại Toà giản lược, thủ tục tranh tụng do một thẩm phán tiến hành công khai. Tại Toà Khu vực, tuỳ theo sự nghiêm trọng hay phức tạp của vụ án, mà lựa chọn 01 thẩm phán hoặc một Hội đồng thẩm phán gồm 03 thẩm phán để tiến hành vụ việc. Khoảng hơn 90% các vụ việc tại Toà khu vực do 01 thẩm phán giải quyết.  Tuy nhiên, hầu hết các vụ phúc thẩm được gửi lên từ Toà Giản lược đều được Hội đồng thẩm phán xét xử.

Cũng liên quan đến Toà án có thẩm quyền, Bộ luật tố tụng dân sự quy định nguyên đơn phải gửi đơn kiện đến toà án nơi cư trú hoặc thường trú của bị đơn. Tuy nhiên vẫn có ngoại lệ, trong các vụ việc đòi bồi thường thiệt hại, đơn kiện có thể được gửi tới toà án nơi xảy ra hành vi trái pháp luật, hoặc trong các vụ bất động sản, đơn kiện có thể được gửi tới toà án nơi có bất động sản đó.

2. Thủ tục tranh tụng:

Điều 133, khoản 1 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định về nguyên tắc, một vụ việc phải được khởi kiện bằng việc nộp đơn kiện tại Toà án có thẩm quyền, trong đó nêu rõ mục đích và cơ sở của việc kiện. Thẩm phán được giao vụ việc (hoặc thẩm phán chủ toạ, nếu là vụ việc do Hội đồng thẩm phán giải quyết) có trách nhiệm kiểm tra đơn kiện, gửi giấy triệu tập cho đương sự và ấn định ngày tranh tụng. Thủ tục tranh tụng được tiến hành công khai tại Toà dưới sự chỉ đạo của thẩm phán chủ toạ. Nguyên đơn và bị đơn phải có mặt hoặc nhờ Luật sư của LVN Group đại diện tại phiên toà để thực hiện các hành vi tố tụng như khởi kiện, khẳng định các tình tiết, đưa ra các chứng cứ v.v..Quyền hạn của người đại diện hợp pháp được pháp luật quy định. Nếu nguyên đơn hay bị đơn không có năng lực tố tụng, thì bắt buộc phải có người đại diện hợp pháp. Năng lực tố tụng và đại diện hợp pháp của một người không có năng lực tố tụng được quyết định, về nguyên tắc, theo các quy định của Bộ luật dân sự, các luật khác và quyết định của toà án (Điều 28).  Trong trường hợp đối với pháp nhân thì người đại diện hợp pháp có thể là giám đốc đại diện, giám đốc hay quản đốc (Điều 29) . Giống như người đại diện hợp pháp, một người được uỷ quyền hoàn toàn đại diện cho một bên tiến hành một vụ kiện, cũng như nhận lại những hành vi tố tụng của toà án và của phía bên kia, thông qua uỷ quyền  trong một vụ kiện, được gọi là là Luật sư của LVN Group bào chữa. Phạm vi quyền hạn nhất định của bào chữa viên được quy định tại Điều 55 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Nội dung chính của yêu cầu khiếu kiện phải rõ ràng và chính xác (vụ kiện đòi thực hiện một hành vi, đòi sự khẳng định, hoặc vụ kiện đòi xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp lý). Lý do khiếu kiện cần phải được trình bày rõ ràng trong đơn kiện, là tình tiết để xác định khiếu kiện theo thủ tục tố tụng. Bộ Luật tố tụng dân sự cũng quy định việc các bên phải chuẩn bị bản tóm tắt bằng văn bản (Điều 161, khoản 1). Các vấn đề được trình bày tóm tắt (điều 161, khoản 2) đã được cho phép đưa vào đơn kiện, ví dụ viêc đưa ra chứng cứ hay tình tiết làm sáng tỏ và biện luận cho các yêu cầu của nguyên đơn. đây là những vấn đề nội dung tự nguyện được trình bày trong đơn kiện. Bản tóm tắt nộp cho Toà án sẽ được tống đạt cho bên đương sự kia. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc tranh tụng miệng, để đảm bảo công bằng cho các bên đương sự, thì nội dung nêu tại bản tóm tắt bằng văn bản không trở thành tài liệu xét xử là căn cứ để ra bản án.  Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định rằng các vấn đề không được trình bày trong bản tóm tắt không thể được một bên trình bày khi tranh tụng miệng tại phiên xét xử chính thức, trừ khi có mặt của bên kia. Điều này cũng chủ yếu nhằm tránh các bên làm chậm trễ quá trình xét xử.

Đối với các vụ việc phức tạp,  Toà án có thể họp chuẩn bị trước khi tiến hành thủ tục tranh tụng. Đây là thủ tục trước xét xử, với sự có mặt của cả hai bên đương sự,  do một trong số các thẩm phán của hội đồng xét xử tiến hành (còn gọi là thẩm phán được uỷ nhiệm), nhằm mục đích tạo điều kiện cho quá trình xét xử được thuận lợi hơn. Tại buổi họp này, các bên đưa ra bằng chứng và lập luận làm rõ lời khẳng định của mình. Buổi họp này không cần thiết phải đưa ra công khai (có thể được tiến hành tại phòng hoà giải, hay phòng của thẩm phán), bởi lẽ Toà án không cần phải đưa ra phán quyết nào về lời khai của các bên đương sự.  Thẩm phán được uỷ nhiệm xét xử không được phép quyết định việc đưa ra chứng cứ hay xem xét chứng cứ văn bản. 

Điều 170, khoản 6; Điều 165, Khoản 1 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định, sau khi kết thúc thủ tục chuẩn bị tranh tụng, Toà án và các bên có thể khẳng định các tình tiết cần phải được chứng minh thông qua việc xem xét chứng cứ sau này. Thẩm phán chủ toạ có thể yêu cầu các bên nộp tài liệu nêu tóm tắt kết quả thu xếp các vấn đề và chứng cứ khi kết thúc thủ tục chuẩn bị bằng văn bản, nếu thấy thích hợp (Điều 176, khoản 4; Điều 165, Khoản 2).

Sau khi các vấn đề cốt lõi giữa các bên đương sự đã được làm sáng tỏ ở giai đoạn chuẩn bị tranh tụng, thủ tục tranh tụng được chính thức tiến hành bằng việc Toà án xem xét chứng cứ để quyết định bản chất vụ kiện. Các bằng chứng được đưa ra Toà thông qua việc kiểm tra  nhân chứng, kiểm tra tài liệu, kiểm tra bằng chứng thực và bằng chứng giám định, cũng như kiểm tra chính các bên đương sự.  Điều 182 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy dịnh việc xem xét nhân chứng và bản thân các bên phải được tiến hành sau khi kết thúc việc thu xếp các vấn đề và chứng cứ.

 Về cơ bản, việc xem xét chứng cứ được thực hiện theo kiến nghị của các bên. Toà án có toàn quyền quyết định việc chấp thuận đưa ra chứng cứ bằng quyết định chứng cứ. Điều 181, khoản 1 quy định Toà án có thể bác việc đưa ra chứng cứ, trong trường hợp Toà thấy không cần thiết. Với những chứng cứ quá hạn và việc đưa ra chứng cứ không hợp lệ, Toà án cũng có thể bác bỏ, theo quy định tại Điều 157, khoản 1.  Trong quá trình tìm hiểu sự thật, các thẩm phán không bị hạn chế bởi bất cứ đạo luật cụ thể nào về đánh giá chứng cứ. Vấn đề này thuộc quyền tự do của Toà án.Tuy nhiên, mặc dù thẩm phán hay Hội đồng thẩm phán có quyền quyết định việc chấp nhận hay bác bỏ chứng cứ, về nguyên tắc, Toà án không được phép đương nhiên lấy chứng cứ nếu chứng cứ không phải là do các bên đương sự đưa ra.

Việc kiểm tra nhân chứng được quy định tại các Điều 194 – 205 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nhân chứng có nghĩa vụ báo cáo tình tiết đã xảy ra ngoài tố tụng mà họ chứng kiến. Lời trình bày của nhân chứng được gọi là lời khai và việc xem xét chứng cứ dựa trên tư liệu chứng cứ này gọi là kiểm tra  nhân chứng. Mặc dù về nguyên tắc, nhân chứng có nghĩa vụ phải có mặt tại phiên toà, nhưng tuỳ từng trường hợp cụ thể, nếu không có sự phản đối của các bên,  thay vì kiểm tra nhân chứng, Toà án có thế yêu cầu nhân chứng trình bày bằng văn bản (Điều 205). Đây là một trong các ngoại lệ cho quá trình xét xử tại Toà Giản lược, đơn giản hơn nhiều so với thủ tục Tố tụng Dân sự chung.

Trong quá trình tranh tụng, thư ký Toà phải có mặt và ghi biên bản, bao gồm lời khẳng định và viện dẫn chứng cứ của các bên, lời khai của các nhân chứng, của chính các đương sự, cũng như của giám định viên.

Quá trình xét xử rút gọn được thực hiện tại Toà Giản lược, nhằm giúp các bên đạt được giải pháp một cách tự nguyện mà không phải qua các bước xét xử chính thức. Theo kiến nghị của các bên, thoả thuận có thể đạt được trước khi bắt đầu xét xử. Thoả thuận được ghi vào biên bản có hiệu lực như một phán quyết chính thức cuối cùng. Đây là cách thức mà các chủ nợ thường áp dụng để nhanh chóng xác lập quyền của mình. Thủ tục đơn giản là biện pháp toà án ra lệnh trả nợ ngay sau khi có đơn kiện của chủ nợ (trong trường hợp đơn kiện là đơn đòi trả tiền, chuyển tiền, chứng từ có thể chuyển nhượng hoặc các vật có giá trị khác); đồng thời ra thời hạn là 02 tuần để bên nợ thông báo về ý định tranh tụng của mình. Nếu trong thời  hạn này, bên nợ không thông báo về ý định tranh tụng của mình, thì Toà án có thể ra lệnh trả nợ cùng với việc tuyên bố thi hành tạm thời, dựa trên lệnh này, chủ nợ có thể cưỡng chế việc thi hành. Trái lại, nếu bên nợ không đồng ý với lệnh của Toà thì có thể đệ đơn khiếu nại trong thời hạn quy định. Khi đơn khiếu nại được thụ lý, vụ việc có thể được chuyển sang xét xử theo thủ tục pháp lý thông thường.

Một trong các cách xét xử theo thủ tục rút gọn là giải quyết các vụ việc thông qua thoả thuận và hoà giải. Ở Nhật, trong Tố tụng Dân sự không có hệ thống xét xử bồi thẩm, nhưng có một hệ thống xét xử thông qua Uỷ ban hoà giải hoặc uỷ viên xét xử với thủ tục tương tự như hệ thống bồi thẩm.  Thành phần của Uỷ viên xét xử mà Toà án lựa chọn để tham gia phiên toà và đưa ra phán xét một cách khách quan sau khi nghe các ý kiến,  là những người có uy tín và kiến thức rộng rãi. Họ cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hoà giải.

Các yêu cầu chính về mặt thủ tục là:

-Vụ kiện được khởi kiện hợp thức và khiếu kiện đã được tống đạt hợp thức;

-Các bên phải tồn tại và ít nhất 1 bên phải có đủ năng lực để trở thành một bên tham gia tố tụng.   

3. Nguyên tắc về mặt thủ tục:  

Những yêu cầu về mặt thủ tục sau đây là có tính bắt buộc để Toà án có thể ra quyết định về vấn đề chính. Nếu khiếu kiện không đáp ứng một trong những yêu cầu về thủ tục trong khi vấn đề chính của vụ khiếu kiện đang được xem xét, thì Toà có thể ra quyết định bác đơn kiện (quyết định về thủ tục) mà không cần tiếp tục xem xét đến vấn đề chính của vụ kiện.

-Vụ kiện được khởi kiện hợp thức và khiếu kiện đã được tống đạt hợp thức;

-Các bên phải tồn tại và ít nhất một bên phải có đủ năng lực để trở thành một bên tham gia tố tụng .

-Bị đơn là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án Nhật bản.

-Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ kiện

-Đơn kiện phải liên quan đến lợi ích hợp pháp và cần thiết phải có một quyết định của Toà án. 

4. Hoà giải tại Toà án: 

Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp rất được chú trọng tại Nhật bản. Luật hoà giải dân sự  của Nhật bản điều chỉnh sự thoả thuận tại Toà án giữa các bên trong các vấn đề dân sự và thương mại. Đây là một bước củng cố thoả thuận giải quyết tranh chấp thông qua sự nhượng bộ giữa các bên, đồng thời cũng là một hoạt động có tính thủ tục để tuyên bố và báo cáo kết quả trong một phiên toà. Việc hoà giải tại Toà án thông thường do uỷ ban hoà giải, do Toà án tổ chức và giám sát. Vì vậy, hoà giải tại Toà án khác với hoà giải ngoài Toà án. Hoà giải qua Toà cũng có thể được thực hiện trong thời gian chờ Toà xét xử (Điều 89). Toà án có thể gợi ý các bên hoà giải qua toà vào bất kỳ lúc nào trước khi toà xét xử. Điều 264 và Điều 265 quy định, về nguyên tắc, việc hoà giải qua toà phải được tuyên bố trực tiếp trong ngày tranh tụng, trong quá trình tố tụng trước tranh tụng và hoà giải vụ kiện. Khi các bên đã đạt được thoả thuận, và uỷ ban hoà giải quyết định rằng thoả thuận đó là phù hợp, thì thoả thuận được ghi vào biên bản, và có hiệu lực như một bản án của Toà án.  Biên bản hoà giải bao gồm việc thực hiện cụ thể, thời hạn thực hiện và phương thức thực hiện sẽ có hiệu lực thi hành.

5. Thủ tục ra bản án:

Thủ tục tranh tụng tại Toà có thể chấm dứt với nhiều lý do và hình thức khác nhau:

– Trong trường hợp hoà giải tại Toà án không thành, và sau khi đã xem xét chứng cứ, nếu Toà án quyết định rằng đơn kiện của một trong các bên đương sự là đúng thì toà sẽ kết thúc thủ tục tranh tụng và ra quyết định. Quyết định được công bố tại phòng xử án dưới hình thức một phán quyết trong đó nêu rõ quá trình xét xử, các yếu tố của vụ án, lý do, ngày chấm dứt tranh tụng, các bên và đại diện pháp lý của họ, lời khẳng định của cả hai bên đương sự, ngày chấm dứt tranh tụng, lý do ra quyết định, toà án nơi ra bản án, thẩm phán ra bản án sẽ ký tên và đóng dấu vào bản án.  …

– Trong trường hợp phát hiện bán án trái pháp luật, Toà án có thể ra bản án thay thế trong vòng một tuần kể từ ngày tuyên án (Điều 256). Trong trường hợp này, Toà án có thể ra một bản án mới để thay đổi nội dung của bản án cũ.  

Hiệu lực của bản án:  

Khi một bên có quyền kháng cáo mà không nộp đơn xin kháng cáo trong thời hạn luật định, bản án sẽ có hiệu lực khi hết thời hạn đó.  Thậm chí ngay cả trước khi thời hạn kháng cáo hết, nếu bên có quyền kháng cáo (các bên có quyền kháng cáo tuỳ theo mức độ thua kiện) khước từ quyền này, bản án sẽ có hiệu lực cuối cùng khi quyền đó bị khước từ.

Điều 284và 313 quy định, trong trường hợp các bên đạt được thoả thuận không kháng cáo, bản án sẽ có hiệu lực ngay khi nó được Toà tuyên.  Trong trường hợp các bên đạt được thoả thuận từ bỏ kháng cáo thì bản án sẽ có hiệu lực khi thời hạn nộp kháng cáo hết.

Ngược lại, khi việc kháng cáo hợp pháp được thực hiện trong thời hạn kháng cáo, bản án sẽ chưa có hiệu lực. Cho đến khi đơn kháng cáo bị bác do không hợp lý thông qua một quyết định thì bản án vẫn bị hoãn và chưa có hiệu lực. Bản án gốc sẽ có hiệu lực vào thời điểm khi quyết định bác đơn kháng cáo có hiệu lực.

Quyết định của toà Giản lược có thể được khiếu nại lên Toà án Khu vực, và quyết định phúc thẩm của Toà án khu vực có thể được khiếu nại lên Toà án Cấp cao có thẩm quyền. Quyết định của Toà án Cấp cao có thể được khiếu nại tiếp lên Toà án Tối cao nếu có liên quan đến các vấn đề Hiến định. Tại Toà án tối cao, các vụ việc thông thường do 1 Hội đồng nhỏ bao gồm 5 thẩm phán của Toà án tối cao. Tuy nhiên, Luật tổ chức Toà án quy định: các vụ việc liên quan đến Hiến pháp sẽ do Hội đồng lớn bao gồm  tất cả các thẩm phán của Toà án tối cao, tức là 15 thẩm phán.

Bài viết tham khảo: Giải quyết tranh chấp thương mại tại Nhật Bản: Nét đặc thù của pháp lý Á Đông; Đặng Hoàng Oanh, Vụ Hợp tác quốc tế – Bộ Tư pháp