1. Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Căn cứ theo điều 33 Bộ luật Hình sự 2015 quy định :

1. Hình phạt chính bao gồm:

a) Phạt tiền;

b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;

c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

2. Hình phạt bổ sung bao gồm:

a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;

b) Cấm huy động vốn;

c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

1. Hình phạt chính bao gồm:

a) Phạt tiền;

b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;

c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

2. Hình phạt bổ sung bao gồm:

a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;

b) Cấm huy động vốn;

c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

3. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

 

2. Phân tích hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

– Đối với hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

Phạt tiền đối với pháp nhân thương mại: Theo Điều 77 BLHS năm 2015 thì phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng.

Nếu Tòa án áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại là hình phạt chính thì không được áp dụng hình phạt này là hình phạt bổ sung nữa. Tuy nhiên, nếu Tòa án áp dụng hình phạt khác (không phải là tiền) là hình phạt chính thì có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại.

Nếu Tòa án áp dụng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại là phạt tiền thì phải căn cứ vào khung hình phạt tiền đối với tội phạm mà pháp nhân thương mại bị kết án để xác định mức tiền phạt cụ thể.

Đình chỉ hoạt động có thời hạn: Theo quy định tại Điều 78 BLHS năm 2015 thì đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.

Căn cứ vào nội dung quy định trên thì pháp nhân thương mại có thể bị Tòa án đình chỉ hoạt động một hoặc một một số lĩnh vực chứ không đình chỉ toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực này pháp nhân thương mại có khả năng khắc phục.

Việc đánh giá và xác định một pháp nhân thương mại có khả năng khắc phục là một việc không dễ. Thông thường, pháp nhân thương mại khi phạm tội bao giờ cũng đưa ra những lý do cho rằng mình sẽ khắc phục được hậu quả trong một thời gian để không bị Tòa án áp dụng hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Vì vậy, khi áp dụng loại hình phạt này, Tòa án cần có những căn cứ, nếu cần phải yêu cầu cơ quan chuyên môn giám định hoặc đến tận nơi để kiểm tra, xác minh xem có đúng là pháp nhân thương mại đó có khả năng khắc phục không. Nếu quan liêu, chỉ nghe báo cáo thì việc áp dụng hình phạt này sẽ không chính xác

Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn:Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoàn toàn hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra. Cũng như trường hợp đình chỉ hoạt động có thời hạn, Tòa án chỉ được đình chỉ hoạt động vĩnh viễn một hoặc một số lĩnh vực chứ không được đình chỉ tất cả những lĩnh vực nếu như pháp nhân thương mại chỉ phạm tội có liên quan đến một hoặc một số lĩnh vực. Khi áp dụng hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực pháp nhân thương mại phạm tội, Tòa án cần căn cứ vào thiệt hại pháp nhân thương mại gây ra hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến các lĩnh vực bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn mà pháp nhân thương mại không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

– Đối với hình phạt bổ sung bao gồm:

Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định: Cùng với hình phạt chính, Tòa án có thể áp dụng hình phạt bổ sung cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực khi xét thấy, nếu để pháp nhân thương mại bị kết án tiếp tục kinh doanh hoặc hoạt động trong lĩnh vực đó, thì có thể gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cho xã hội. Tòa án phải nói rõ trong bản án là cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nào, chứ không thể tuyên chung chung là cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định được. Cho dù Tòa án áp dụng hình phạt chính là đình chỉ hoạt động có thời hạn hay đình chỉ hoạt động vĩnh viễn một hoặc một số lĩnh vực thì việc cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định cũng chỉ từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chứ không được cấm vĩnh viễn, vì đây là hình phạt bổ sung.

Cấm huy động vốn:Cấm huy động vốn là hình phạt bổ sung được áp dụng khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án huy động vốn thì có nguy cơ tiếp tục phạm tội. Các hình thức cấm huy động vốn bao gồm: Cấm vay vốn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc quỹ đầu tư; cấm phát hành, chào bán chứng khoán; cấm huy động vốn khách hàng; cấm liên doanh, liên kết trong và ngoài nước; cấm hình thành quỹ tín thác bất động sản. Tòa án có thể quyết định áp dụng một hoặc một số hình thức cấm huy động vốn trên. Tuy nhiên, thời hạn cấm huy động vốn cũng chỉ từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, vì đây là hình phạt bổ sung.

Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính:Khi Tòa án không áp dụng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội là phạt tiền như: đình chỉ hoạt động có thời hạn hay đình chỉ hoạt động vĩnh viễn một hoặc một số lĩnh vực thì mới được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Nếu đã áp dụng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội là phạt tiền thì không được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung nữa. Mức phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội cũng phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng (tương tự như đối với hình phạt chính). Cũng như đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội thì với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

>> Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.0191

 

3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội

– Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ quy định đối với người phạm tội tại điểm a khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, đối với pháp nhân thương mại, việc ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm có thể do pháp nhân thương mại hoặc lãnh đạo của pháp nhân thương mại thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại mình. Nếu lãnh đạo của pháp nhân thương mại cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì tình tiết giảm nhẹ này là tình tiết giảm nhẹ “kép” vừa được áp dụng khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, vừa được áp dụng đối với người phạm tội của pháp nhân thương mại.

– Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ quy định đối với người phạm tội tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Nếu cá nhân người trong pháp nhân thương mại bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cả pháp nhân thương mại và cá nhân người phạm tội đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.

– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ quy định đối với người phạm tội tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ cũng tương tự như đối với trường hợp quy định tại điểm a và b.

– Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ quy định đối với người phạm tội tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ cũng tương tự như đối với trường hợp quy định tại điểm a, b và c.

– Có nhiều đóng góp trong việc thực hiện chính sách xã hội: Đây là tình tiết giảm nhẹ chỉ quy định cho pháp nhân thương mại phạm tội. Nếu so sánh với các tình tiết giảm nhẹ đối với người phạm tội quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015 thì tình tiết giảm nhẹ này cũng có điểm tương đồng với các tình tiết quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, đối với người phạm tội thì những thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác là của cá nhân người phạm tội và các thành tích xuất sắc đó phải được ghi nhận bởi các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội bằng các hình thức khen thưởng như Giấy khen, Bằng khen, Huân chương, Huy chương và các danh hiệu cao quý khác, còn đối với pháp nhân thương mại chỉ cần có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội là tổ chức kinh tế này (pháp nhân thương mại) có nhiều đóng góp cho việc thực hiện chính sách xã hội như: nhận làm nhà tài trợ cho một giải thi đấu thể thao hoặc biểu diễn nghệ thuật, xây nhà tình nghĩa, ủng hộ đồng bào lũ lụt, tặng tiền hoặc hiện vật cho trường học, giúp đỡ các gia đình có công với nước… Có thể việc đóng góp đó được tặng các danh hiệu cao quý, nhưng cũng có thể không được tặng, miễn là cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương xác nhận. Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại thương mại phạm tội, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được BLHS quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình phạt. Xem thêm: Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội

 

4. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội

– Câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội: Tình tiết phạm tội này cũng tương tự như tình tiết phạm tội có tổ chức đối với người phạm tội, nhưng đối với pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội bao giờ cũng là hành vi có tổ chức nên không cần phải quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hình thức phạm tội có tổ chức của pháp nhân thương mại ở tình tiết tăng nặng được mở rộng hơn, đó là “câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội”. Tình tiết có tính đặc thù chỉ đối với pháp nhân thương mại thương mại mới có.

– Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng: Tình tiết phạm tội này hoàn toàn giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

– Phạm tội 02 lần trở lên: Tình tiết phạm tội này hoàn toàn giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

– Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm: Tình tiết phạm tội này hoàn toàn giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội: Tình tiết phạm tội này hoàn toàn giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm l khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự .

– Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm: Tình tiết phạm tội này có một phần giống với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội quy định tại điểm m khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015, đó là dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội.

 

5. Miễn hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Bộ luật Hình sự không quy định trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội mà chỉ quy định miễn hình phạt, nếu pháp nhân thương mại phạm tội đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì có thể được miễn hình phạt. Như vậy, điều kiện (căn cứ) để pháp nhân thương mại được miễn hình phạt khác với điều kiện người phạm tội được miễn hình phạt.

Theo quy định tại Điều 88 BLHS năm 2015 thì pháp nhân thương mại phạm tội có thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật hình sự, luật tố tụng hình sự – Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến. Trân trọng./.