Triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng con người là điểm khởi nguồn của tư duy triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo. Thượng
Con người luôn là một ẩn số thúc đẩy sự tìm hiểu của khoa học mọi thời kỳ. Bàn về con người, có nhiều quan điểm khác nhau giữa Triết học phương Đông và phương Tây. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn đọc các thông tin cần thiết liên quan đến quan niệm về con người trong triết học Phương Tây.
Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác
Trước Mác, triết học phương Tây có nhiều quan niệm khác nhau về con người với các trường phái khác nhau:
– Trường phái triết học tôn giáo phương Tây
Khi nói về quan điểm trước Mác về con người không thể không thể kể đến các trường phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Ki tô giáo. Theo Ki tô giáo, cuộc sống con người do đấng tối cao an bài, sắp đặt. Bản chất con người là kẻ có tội. Con người gồm hai phần là thể xác và linh hồn, trong đó, linh hồn là thứ có giá trị cao nhất trong con người và tồn tại vĩnh cửu. Ki tô giáo khuyên con người cần nuôi dưỡng linh hồn để hướng đến nơi Thiên đường.
Ta thấy, triết học tôn giáo phương Tây còn nhận thức vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm thần bí.
– Triết học Hy Lạp cổ đại
Khác với Ki tô giáo, triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng con người là điểm khởi nguồn của tư duy triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Chẳng hạn như Arixtốt có quan niệm rằng chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con người nổi bật lên, con người là thang bậc cao nhất của vũ trụ.
Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu đã có sự phân biệt con người với tự nhiên. Tuy nhiên, sự hiểu biết về con người mới chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài.
– Triết học Tây Âu trung cổ
Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo. Thượng đế chi phối, sắp xếp đối với số phận của con người, kể cả niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi. Theo đó, ý chí của Thượng đế là tối thượng, trí tuệ con người thấp hơn lý chí anh minh của Thượng đế.
– Triết học thời kỳ phục hưng – cận đại
Triết học thời kỳ này đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ.
– Triết học cổ điển Đức
Trong Triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Can tơ, Hê ghen đã phát triển quan niệm con người theo khuynh hướng chủ nghĩa duy tâm.
Hê ghen cho rằng con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối hình thành trong quá trình tự ý thức của tư tưởng con người, quá trình này đưa con người trở về với giá trị tinh thân, giá trị bản thể và cao nhất trong đời sống con người. Bên cạnh đó, Hê ghen còn trình bày một cách hệ thống các quy luật của quá trình tư duy của con người, làm rõ cơ chế đời sống tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người. Từ đó, khẳng định vai trò chủ thể của con người đối với lịch sử.
Ngược lại, Phoiơbắc lại phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản chất con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con người do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên. Phoiơbắc đề cao vai trò và trí tuệ của con người với tính cách là những cá thể người. Từ đó nhằm giải phóng cá nhân con người. Tuy nhiên, quan điểm này cũng bộc lộ hạn chế, đó là không phản ánh được bản chất xã hội trong đời sống con người, tách co người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể.
Qua các quan niệm về con người trong triết học phương Tây thời kỳ trước Mác, mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung các quan niệm đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên – sinh học mà chưa phản ánh được bản chất xã hội của con người.
Quan niệm của triết học Mác – Lê nin về bản chất con người
Đến lượt mình, Mác – Lê nin đã có những quan niệm tiến bộ, khắc phục được những hạn chế của các quan niệm về con người trong Triết học phương Tây thời kỳ trước.
– Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
+ Yếu tố sinh học: là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Bản chất sinh học của con người được thể hiện thông qua các đặc điểm sinh học, quá trình tâm – sinh lý và các giai đoạn phát triển khác nhau.
+ Yếu tố xã hội:
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó từ vấn đề lao động sản xuất.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người: “ Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên : “ Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
– Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
– Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử. Trong khi thế giới loài vật dựa vào những điều kiện sẵn có của tự nhiên, thì con người lại thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú tự nhiên, tái tạo lại tự nhiên theo mục đích của mình. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Như vậy, ta thấy quan niệm về con người trong Triết học phương Tây ngày càng phát triển và tiến bộ. Quan điểm sau kế thừa hoặc phản biện giúp hoàn thiện các quan điểm trước kia. Trong đó, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin ra đời đã nhìn nhận con người một cách toàn diện và đúng đắn.