Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ về Hợp đồng dịch vụ uỷ thác quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Mời Quý vị theo dõi:
Hợp đồng dịch vụ uỷ thác quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là gì?
Xét từ góc độ học thuật, có thể hiểu hợp đồng dịch vụ uỷ thác quản lý danh mục đầu tư là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên cung ứng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán với khách hàng (nhà đầu tư), theo đó bên cung ứng dịch vụ chấp nhận sự uỷ thác của khách hàng trong việc mua, bán, nắm giữ chứng khoán và quản lí các khoản mục đầu tư của khách hàng vì quyền lợi của họ để được hưởng phí dịch vụ uỷ thác do khách hàng thanh toán.
Theo thông lệ và tập quán giao dịch, hợp đồng dịch vụ uỷ thác quản lí danh mục đầu tư chứng khoán thường bao gồm các điều khoản chủ yếu sau đây:
– Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Điều khoản này có nhiệm vụ xác định rõ những công việc mà bên cung ứng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán phải thực hiện theo sự uỷ quyền và vì quyền lợi của khách hàng. Tinh thần cơ bản của điều khoản này là làm rõ các công việc cụ thể mà bên thực hiện sự uỷ thác phải thực hiện với trách nhiệm và thiện chí cao nhất, vì quyền lợi của khách hàng là nhà đầu tư.
Mặt khác, điều khoản này cũng phải thể hiện rõ tính tự chịu trách nhiệm của khách hàng về những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình đầu tư, nếu các rủi ro đó không phải do lỗi của bên thực hiện sự uỷ thác.
– Điều khoản về phí dịch vụ uỷ thác. Với điều khoản này, các bên phải thoả thuận rõ mức phí dịch vụ uỷ thác mà khách hàng là nhà đầu tư phải trả cho bên thực hiện uỷ thác. Mức phí uỷ thác có thể được xác định dựa trên số lượng và tính phức tạp của các công việc mà bên được uỷ thác phải thực hiện theo yêu cầu và vì quyền lợi của khách hàng. Ngoài khoản phí dịch vụ uỷ thác này, các bên cũng có thể thoả thuận về một khoản tiền thưởng nhất định mà khách hàng phải trả cho bên nhận uỷ thác, nếu hoàn thành tốt công việc được uỷ thác và đem lại những khoản lợi thoả đáng cho khách hàng.
– Điều khoản về thời hạn uỷ thác quản lí danh mục đầu tư chứng khoán. Do bản chất là hợp đồng có sự uỷ quyền nên việc xác định rõ thời hạn thực hiện công việc được uỷ quyền là rất cần thiết. Trong thời hạn được uỷ quyền, bên cung ứng dịch vụ quản lí danh mục đầu tư chứng khoán phải thực hiện các công việc được uỷ thác một cách tận tâm, nỗ lực và thiện chí cao nhất vì quyền lợi của khách hàng là nhà đầu tư.
Nếu khách hàng có bằng chứng về việc bên cung ứng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán có những hành động gây thiệt hại cho quyền lợi của họ trong quá trình mua, bán và nắm giữ chứng khoán (ví dụ: không mua vào chứng khoán khi giá thấp hoặc không bán ra chứng khoán khi giá cao, hoặc cố ý đặt lệnh mua hay bán chứng khoản của mình trước lệnh của khách hàng…) thì khách hàng có quyền yêu cầu bên gây thiệt hại phải bồi thường.
Đương nhiên, ngoài thời hạn uỷ thác thì bên cung ứng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán không có nghĩa vụ phải thực hiện những công việc mà khách hàng yêu cầu trong hợp đồng dịch vụ uỷ thác đồng thời cũng không phải chịu trách nhiệm pháp lí về những rủi ro, tổn thất cho quyền lợi của khách hàng trong thời gian này.
– Điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong điều khoản này, các bên cần xác định rõ những quyền và nghĩa vụ pháp lí cơ bản mà mỗi bên phải thực hiện theo hợp đồng. Những quyền, nghĩa vụ này phải thể hiện rõ nguyên tắc căn bản là khách hàng (nhà đầu tư) phải tự gánh chịu những rủi ro, tổn thất xảy ra cho mình trong quá trình đầu tư chứng khoán, nếu không phải do lỗi của bên thực hiện sự uỷ thác.
>>>>> Xem thêm: Chứng khoán là gì?
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của bên cung ứng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, bên cung ứng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán luôn đóng vai trò là người nhận sự uỷ thác của khách hàng (nhà đầu tư) để tiến hành các hoạt động đầu tư chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng.
Với tư cách là bên nhận uỷ thác, bên cung ứng dịch vụ quản lí danh mục đầu tư chứng khoán có những quyền, nghĩa vụ pháp lí cơ bản sau đây:
– Quyền yêu cầu khách hàng chuyển giao cho mình các khoản tiền mà khách hàng quyết định đầu tư vào chứng khoán hoặc các loại chứng khoán, các tài sản đầu tư khác cần được quản lí. Ngoài ra, với tư cách là bên nhận uỷ thác, tổ chức cung ứng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán cũng cần được khách hàng chứng minh tính hợp pháp về nguồn gốc của khoản vốn đầu tư vào chứng khoán cũng như các thông tin về mục đích đầu tư của khách hàng.
Việc ghi nhận quyền năng này nhằm tạo điều kiện cho tổ chức cung ứng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán thực hiện tốt sự uỷ thác của nhà đầu tư trong quá trình mua, bán và nắm giữ chứng khoán cũng như quản lí có hiệu quả các khoản mục đầu tư của khách hàng.
– Nghĩa vụ thực hiện các công việc mà khách hàng uỷ thác trong hợp đồng dịch vụ uỷ thác quản lí danh mục đầu tư chứng khoán. Nghĩa vụ này bao gồm việc mua chứng khoán trên thị trường bằng vốn của khách hàng ở thời điểm thích hợp để nắm giữ và bán ra chứng khoán trên thị trường khi giá cao nhằm đem lại lợi nhuận cho khách hàng. Ngoài ra, công ty quản lý quỹ cũng phải có trách nhiệm thu về các khoản lợi tức phát sinh từ chứng khoán cho khách hàng và sử dụng khoản lợi tức đó để tiếp tục đầu tư vào chứng khoán nếu được khách hàng uỷ thác thực hiện.
Trong quá trình thực hiện các công việc này, tổ chức cung ứng dịch vụ quản lí danh mục đầu tư chứng khoán phải chứng tỏ sự tận tâm, trách nhiệm và nỗ lực cao nhất nhằm đem lại lợi ích tối đa cho khách hàng. Mọi hành vi của chủ thể này nhằm gây ra các hậu quả bất lợi cho khách hàng đều không được coi là phù hợp với các cam kết trong hợp đồng dịch vụ uỷ thác quản lí danh mục đầu tư chứng khoán và có thể bị khách hàng đối kháng bằng thủ tục khiếu nại hoặc khởi kiện.
– Quyền yêu cầu khách hàng trả phí dịch vụ uỷ thác quản lí danh mục đầu tư chứng khoán. Trên nguyên tắc, tổ chức cung ứng dịch vụ quản lí danh mục đầu tư chứng khoán chỉ có thể thực hiện quyền năng này sau khi đã hoàn thành các công việc theo yêu cầu của khách hàng trong hợp đồng dịch vụ uỷ thác quản lý danh mục đầu tư, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Ngoài ra, tổ chức cung ứng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán cũng có thể yêu cầu khách hàng thanh toán cho mình khoản tiền thưởng theo thoả thuận, nếu chứng minh được rằng mình đã đem lại cho khách hàng những khoản lợi to lớn trong quá trình thực hiện sự uỷ thác đầu tư vào chứng khoán.
->>> Tham khảo thêm: Dịch vụ soạn thảo hợp đồng
->>> Tham khảo thêm: Tư vấn soạn thảo hợp đồng