Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ làm rõ về Vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán. Mời Quý độc giả theo dõi nội dung bài viết.
Quỹ đầu tư chứng khoán và công ti đầu tư chứng khoán, gọi chung là đầu tư tập thể, có một số tác dụng tích cực đối với nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Thứ nhất, đầu tư tập thể cho phép nhà đầu tư có thể tham gia đầu tư vào nhiều loại thị trường với chủng loại hàng hoá khác nhau, từ đó đa dạng hoá danh mục đầu tư và giảm thiểu rủi ro.
Lợi thế này của đầu tư tập thể cho phép các nhà đầu tư riêng lẻ sử dụng các phương tiện đầu tư tập thể, đa dạng hoá danh mục đầu tư và cũng chính là phân tán nguồn vốn đầu tư. Phân tán nguồn vốn đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với nhà đầu tư vì khi nguồn vốn của nhà đầu tư được đầu tư vào nhiều loại tài sản khác nhau, nếu rủi ro xảy ra đối với một loại tài sản nào đó, nhà đầu tư sẽ chỉ bị mất một phần vốn đầu tư của mình chứ không bị mất toàn bộ vốn như trong trường hợp bỏ vốn đầu tư vào một loại tài sản. Nói cách khác, đầu tư tập thể có khả năng phân tán nguồn vốn đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư, điều mà từng nhà đầu tư riêng lẻ khó có thể làm được.
Thứ hai, đầu tư tập thể giúp các nhà đầu tư có được quyết định đầu tư đúng đắn.
Đầu tư tập thể, dù được tiến hành thông qua quỹ đầu tư chứng khoán hay công ty đầu tư chứng khoán, đều là hoạt động đầu tư mang tính chuyên nghiệp của những nhà đầu tư có tổ chức. Tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư của các định chế này thể hiện ở chỗ toàn bộ hoạt động đầu tư của họ được tiến hành bởi tổ chức chuyên doanh trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán (công ty tư vấn đầu tư hoặc công ty quản lí quỹ, theo cách gọi của mỗi quốc gia) hoặc được thực hiện trên cơ sở chỉ dẫn của các công ti tư vấn đầu tư chứng khoán (điều này thường xảy ra đối với công ty đầu tư chứng khoán).
So với nhà đầu tư riêng lẻ, các phương tiện đầu tư tập thể này có lợi thế hơn ở chỗ, họ có kiến thức chuyên môn, có kĩ năng nghiệp vụ của một nhà đầu tư chuyên nghiệp. Với tư cách nhà đầu tư chuyên nghiệp, họ có khả năng biết được những thông tin nào cần thiết cho quyết định đầu tư của mình, và biết tìm những thông tin đó ở đâu một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất; đồng thời họ còn có khả năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính xác các thông tin đó.
Đây là điều mà các nhà đầu tư riêng lẻ khó có thể đạt được, đặc biệt trong trường hợp đầu tư vào thị trường chứng khoán ngoài nước. Lợi thế này làm cho quyết định đầu tư của các nhà đầu tư có tổ chức này mang tính chuyên nghiệp hơn và vì vậy cũng hiệu quả hơn so với nhà đầu tư riêng lẻ.
Ngay cả khi các nhà đầu tư riêng lẻ sử dụng dịch vụ của công ty tư vấn đầu tư, quyết định đầu tư trên cơ sở tư vấn từ bên ngoài sẽ khó có thể đạt tới mức độ tin cậy và hiệu quả như những quyết định đầu tư được tiến hành trên cơ sở những phân tích đánh giá của bản thân nhà đầu tư có tổ chức. Điều đó được lí giải bởi tình huống khó tránh khỏi là các công ty tư vấn đầu tư rất có thể bị chi phối bởi sự xung đột lợi ích với khách hàng khi tư vấn khách hàng đầu tư vào một loại chứng khoán nào đó.
Thứ ba, hoạt động đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán có tác dụng định hướng đầu tư trên thị trường.
Với tư cách nhà đầu tư chuyên nghiệp, quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán có khả năng tìm kiếm các cơ hội đầu tư một cách sáng suốt. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong việc dẫn dắt các nhà đầu tư cá nhân, thiếu kiến thức và kinh nghiệm đầu tư. Giả sử các phương tiện đầu tư tập thể không tồn tại, hầu hết hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán sẽ được tiến hành bởi các nhà đầu tư riêng lẻ, nhà đầu tư cá nhân.
Các nhà đầu tư này, trong nhiều trường hợp, thường có kiến thức hạn chế về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Ngay cả khi họ có kiến thức về lĩnh vực này, với tư cách là những nhà đầu tư nghiệp dư, họ cũng không có đủ thời gian và điều kiện để phân tích kĩ lưỡng và có bài bản tình hình kinh doanh và tình hình tài chính của các công ti đại chúng, công ty niêm yết đang hoạt động trên thị trường, để từ đó có quyết định đầu tư đúng đắn.
Trong khi đó, các phương tiện đầu tư tập thể có đội ngũ chuyên gia riêng để theo dõi và phân tích tình hình kinh doanh, tình hình tài chính của các công ti đại chúng, công ti niêm yết và phân tích xu hướng thị trường. Hơn nữa, các phương tiện đầu tư tập thể còn có tiềm lực tài chính mạnh do có khả năng thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư, vì vậy họ hoàn toàn chủ động trong việc thực hiện các quyết định đầu tư và ít bị chi phối bởi những lí do khách quan mà các nhà đầu tư cá nhân thường gặp.
Một khi những phân tích cho thấy một dự án nào đó đáng đầu tư, các phương tiện đầu tư tập thể này hoàn toàn có đủ tiềm lực tài chính để thực hiện ý đồ của mình. Quyết định đầu tư của họ, vì vậy, thực sự là sản phẩm của những phân tích, đánh giá khoa học về tình hình thị trường và về chất lượng hàng hoá dự định đầu tư chứ không bị chi phối bởi những khó khăn về tài chính hay về năng lực quản lý đầu tư như các nhà đầu tư cá nhân thường gặp phải.
Như vậy, với sự hiện diện của các quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán, bản thân các nhà đầu tư cá nhân không muốn sử dụng các phương tiện đầu tư tập thể này, vẫn có thể tự mình tiến hành đầu tư, phần nào dựa vào xu hướng đầu tư của các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Nói cách khác, hoạt động đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán và công ti đầu tư chứng khoán đã góp phần định hướng đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Thứ tư, việc đầu tư thông qua các phương tiện đầu tư tập thể còn tiết kiệm được chi phí giao dịch.
Các nhà đầu tư tập thể này thường đặt mua hoặc bán tài sản với số lượng lớn, vì vậy nếu đem số phí giao dịch mà họ phải trả chia cho số lượng người đầu tư bỏ vốn vào quỹ hay công ty đầu tư sẽ ra mức phí giao dịch thấp hơn rất nhiều so với phí giao dịch mà từng nhà đầu tư riêng lẻ phải trả để thực hiện lệnh mua và bán chứng khoán cho mình.
Bên cạnh đó, việc sử dụng dịch vụ tư vấn đầu tư còn đòi hỏi nhà đầu tư phải trả phí dịch vụ, điều mà các nhà đầu tư chuyên nghiệp không phải đối mặt. Đành rằng quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán cũng phải bỏ chi phí để thuê công ty quản lý quỹ nhưng chi phí đó được coi như chi phí quản lí các phương tiện đầu tư tập thể này.