Phá sản là gì? Thẩm quyền giải quyết phá sản? 2023

Phá sản là gì? Thẩm quyền giải quyết phá sản? sẽ được luật LVN Group tư vấn, giải đáp trong nội dung bài viết sau đây.

Khái niệm phá sản 

Phá sản được nhìn nhận dưới hai góc độ:

 – Dưới góc độ kinh tế: 

Thuật ngữ “phá sản” bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng La tinh, có nghĩa là “sự khánh tận”. Khái niệm này dùng để chỉ sự mất cân đối giữa thu và chi của chủ thể kinh doanh mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối ấy là tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.

Như vậy, khi nói đến một chủ thể kinh doanh bị phá sản, dưới góc độ kinh tế, có thể hiểu rằng chủ thể kinh doanh đó đã làm ăn thua lỗ, tạo ra những khoản nợ mà không thể chi trả được. Hay nói cách khác, chủ thể kinh doanh đó đã lâm vào tình trạng tài chính tuyệt vọng chứ không phải tình trạng thua lỗ nhất thời, không thể giải quyết dứt điểm để có thể tiếp tục đứng vững trên thương trường được nữa. Đối với một cá nhân, tình trạng này còn gọi là “vỡ nợ”, tức là cá nhân đó đã không thể trả được các khoản nợ mà mình tạo ra. 

– Dưới góc độ pháp lý: 

Phá sản được nhìn nhận là một trình tự, thủ tục tố tụng; là toàn bộ các bước, các giai đoạn của việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với chủ thể mắc nợ. Hay nói cách khác, trình tự, thủ tục giải quyết phá sản tương tự như trình tự, thủ tục khởi kiện tại Tòa, vì phải tuân thủ đầy đủ, chặt chẽ các bước, các giai đoạn để giải quyết một vụ việc. Ở đây, chủ thể kinh doanh sẽ có thể được phục hồi hoạt động kinh doanh (nếu tình trạng tài chính còn khả quan và các chủ nợ đồng ý); hoặc chấm dứt hoạt động (nếu không thỏa mãn được các điều kiện trên). 

Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 và Luật Phá sản 2004 không đưa ra khái niệm phá sản, nhưng Luật Phá sản 2014 (Luật Phá sản 2014) định nghĩa: “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản” (khoản 2 Điều 4). Như vậy, khái niệm phá sản theo Luật Phá sản 2014 được hiểu theo cả góc độ kinh tế và pháp lý; nghĩa là một doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ bị coi là phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã đó không thanh toán được nợ đến hạn và bị Toà án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản. Nếu trước khi Toà án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã đó dù mất khả năng thanh toán cũng chưa bị gọi là doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. 

Khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán 

Theo khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản 2014: Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán. Về khái niệm này, cần hiểu như sau: 

Thứ nhất: Khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán là khoản nợ không có bảo đảm. Theo Luật Phá sản 2014, doanh nghiệp, hợp tác xã có 2 loại nợ là nợ có bảo đảm và nợ không có bảo đảm; và có 3 loại chủ nợ là: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm 1 phần, chủ nợ không có bảo đảm. Nhưng chỉ khi doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ không có bảo đảm và bị chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm 1 phần đòi thì mới xác định doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. 

Thứ hai: Khi khoản nợ không có bảo đảm đến hạn, chủ nợ đã đòi nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong khoảng thời gian 3 tháng, kể từ ngày khoản nợ đến hạn. Đây là điểm khác biệt giữa Luật Phá sản 2014 so với Luật Phá sản 2004, vì Luật Phá sản 2004 không quy định về thời hạn doanh nghiệp, hợp tác xã có thể “xoay xở” để trả khoản nợ đến hạn cho chủ nợ. Nghĩa là trước đây, khi khoản nợ không bảo đảm đến hạn, chủ nợ đòi nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được, chủ nợ có quyền gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đến Toà án.

Hiện nay, Luật Phá sản 2014 dành cho doanh nghiệp, hợp tác xã khoảng thời gian 3 tháng để thu xếp trả nợ, nếu hết thời hạn này mà doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn không trả mới được xác định là mất khả năng thanh toán. Trong khoảng thời gian này, doanh nghiệp, hợp tác xã có thể có các hoạt động thương lượng với chủ nợ như khoanh nợ, giãn nợ, hoãn nợ… Chủ nợ đòi được xác định là chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm 1 phần, không phải chủ nợ có bảo đảm. 

Thứ ba: Khi khoản nợ không bảo đảm đến hạn, doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định là mất khả năng thanh toán khi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong khoảng thời gian 3 tháng. Tuy nhiên, không thực hiện nghĩa vụ thanh toán được hiểu có 2 trường hợp: một là doanh nghiệp, hợp tác xã có tiền, có khả năng thanh toán nhưng không trả; hai là doanh nghiệp, hợp tác xã không có tiền hay không có khả năng trả.

Khi khoản nợ đến hạn, trước đây để nộp đơn đến Toà, chủ nợ phải chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng trả nợ; nhưng hiện nay, khi hết thời hạn 3 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không trả, chủ nợ có quyền nộp đơn đến Toà không cần biết doanh nghiệp, hợp tác xã đó có khả năng hay không có khả năng thanh toán. Như vậy, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nhưng chưa chắc đã là doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng trả nợ, mà hoàn toàn có thể là doanh nghiệp, hợp tác xã có tiền nhưng chây ỳ không thanh toán.

Thứ tư: Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, kể cả trường hợp không có tiền để trả nợ cũng không có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản để trả nợ. Doanh nghiệp, hợp tác xã có thể còn, thậm chí còn nhiều tài sản, nhưng những tài sản đó gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, vật tư… Để hoạt động, doanh nghiệp, hợp tác xã phải có những tài sản đó; còn nếu bán đi để trả nợ thì cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản vì không thể hoạt động được nữa. 

Thứ năm: Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán một khoản nợ là bao nhiêu thì bị coi là mất khả năng thanh toán? Luật Phá sản 2014 cũng như Luật Phá sản 2004 và Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 trước đây không đưa ra dấu hiệu định lượng, mà đưa ra dấu hiệu định tính, nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định là mất khả năng thanh toán khi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ đến hạn trong khoảng thời gian luật định, không căn cứ vào giá trị khoản nợ. 

Thứ sáu: Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán khoản nợ nào thì coi là mất khả năng thanh toán? Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã là pháp nhân như: công ty hợp danh, công ty cổ phấn, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã, các khoản nợ mà doanh nghiệp, hợp tác xã tạo ra đều là các khoản nợ trong kinh doanh hay nợ thương sự. Khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán các khoản nợ đó thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản.

Nhưng đối với doanh nghiệp tư nhân, khoản nợ mà chủ doanh nghiệp tạo ra bao gồm cả nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh (nợ thương sự) và nợ không phát sinh từ hoạt động kinh doanh (nợ dân sự). Tuy nhiên, khi xác định doanh nghiệp tư nhân mất khả năng thanh toán, cũng chỉ căn cứ vào việc doanh nghiệp không thanh toán được các khoản nợ trong kinh doanh mà thôi. 

Bản chất của phá sản 

Thứ nhất: Phá sản với tư cách là thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã 

Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã bị nộp đơn ra Toà yêu cầu mở thủ tục phá sản, việc đầu tiên mà Luật Phá sản 2014 cũng như Luật Phá sản 2004 trước đây hướng tới không phải là cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, mà hướng tới khả năng phục hồi hay cứu vãn doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Tuy nhiên, thủ tục phục hồi này không giống như thủ tục phục hồi mà doanh nghiệp, hợp tác xã tự thực hiện khi gặp khó khăn, thua lỗ trong kinh doanh trước khi đến Toà; bởi vì, thủ tục này là thủ tục tư pháp.

Đây là một giai đoạn trong thủ tục giải quyết phá sản tại Toà, được thực hiện khi thoả mãn 3 điều kiện: (i) Tình hình tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã còn khả quan; (ii) Các chủ nợ không bảo đảm, có bảo đảm 1 phần của doanh nghiệp, hợp tác xã đồng ý cho phục hồi tại hội nghị chủ nợ; (iii) Bản thân doanh nghiệp, hợp tác xã mong muốn được phục hồi; được Toà án công nhận cũng như giám sát nghiêm ngặt. Kết thúc giai đoạn phục hồi, doanh nghiệp, hợp tác xã có thể phục hồi thành công, thoát khỏi cảnh mất khả năng thanh toán và quay trở lại hoạt động bình thường, có thể không thành công và tiếp tục bị Toà án giải quyết phá sản. 

Thứ hai: Phá sản với tư cách là thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ đặc biệt 

Khi doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán được nợ đến hạn, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến Tòa án có thẩm quyền yêu cầu tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Thực chất của việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ của chủ nợ, đó là việc pháp luật cho phép chủ nợ được nhờ Tòa án đòi nợ hộ cho mình khi họ không thể tự đòi được. Do vậy, bản chất của phá sản chính là một thủ tục đòi nợ (đối với chủ nợ), và thanh toán nợ (đối với con nợ). Tuy nhiên, thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ trong phá sản là thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ đặc biệt, vì nó khác biệt so với thủ tục đòi nợ dân sự bởi một số điểm sau:

Một là: Việc đòi nợ và thanh toán nợ được thực hiện thông qua một cơ quan trung gian, đó là Tòa án. 

Nếu như thủ tục đòi nợ dân sự chỉ có chủ nợ và con nợ, nghĩa là ai nợ thì đòi người đó, thì thủ tục đòi nợ thông qua phá sản ngoài chủ nợ, con nợ còn có sự tham gia của Tòa án. Tòa án với tư cách cơ quan trung gian có thẩm quyền giải quyết phá sản sẽ đại diện cho chủ nợ để đòi nợ con nợ, và đại diện cho con nợ để trả nợ cho chủ nợ. Như vậy, Tòa án sẽ đại diện cho cả chủ nợ và con nợ để bảo vệ quyền lợi cho cả hai bên. 

Hai là: Việc đòi nợ và thanh toán nợ trong phá sản là thủ tục đòi nợ mang tính tập thể 

Nếu như thủ tục đòi nợ dân sự chỉ mang tính đơn lẻ giữa chủ nợ và con nợ, thì thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ trong phá sản diễn ra đồng thời giữa các chủ nợ và con nợ. Hay nói cách khác, khi một chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến Tòa và Tòa đã ra quyết định mở thủ tục phá sản, tất cả các chủ nợ của doanh nghiệp đều có quyền gửi giấy đòi nợ đến Tòa và đều được giải quyết quyền lợi như nhau theo quy định của Luật Phá sản, không phân biệt chủ nợ đó là người nộp đơn hay là người gửi giấy đòi nợ. Như vậy, phá sản là thủ tục đòi nợ mang tính tập thể để bảo vệ quyền lợi cho tất cả các chủ thể có quan hệ với doanh nghiệp, hợp tác xã bị giải quyết phá sản; và khác so với thủ tục kiện đòi nợ dân sự thông thường. 

Ba là: Việc thanh toán nợ dựa trên cơ sở tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã 

Nếu như việc thanh toán nợ trong dân sự là vay bao nhiêu trả bấy nhiêu thì việc thanh toán nợ trong phá sản lại dựa trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã. Trường hợp tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi trả hết các khoản ưu tiên mà vẫn đủ, thậm chí thừa để trả nợ, chủ nợ sẽ được nhận đủ khoản nợ của mình. Tuy nhiên, trường hợp tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã không đủ để trả hết các khoản nợ, các chủ nợ sẽ chỉ được nhận lại khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng với số tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã. Như vậy, trường hợp này các chủ nợ phải chấp nhận rủi ro mà không được kiện đòi nợ các chủ sở hữu của doanh nghiệp, hợp tác xã. 

Bốn là: Việc thanh toán nợ chỉ được diễn ra vào thời điểm Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. 

Nếu như trong thủ tục đòi nợ dân sự chủ nợ có thể đòi con nợ bất cứ lúc nào, thì thủ tục đòi nợ trong phá sản không phải mọi thời điểm con nợ đều được trả nợ cho chủ nợ. Doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ chỉ được thanh toán các khoản nợ không bảo đảm cho các chủ nợ không bảo đảm và bảo đảm một phần sau khi có quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án. Còn trước đó, các khoản nợ này đều bị nghiêm cấm thanh toán để bảo toàn khối tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã. Đối với các khoản nợ có bảo đảm, doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn được thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản, nhưng phải được Toà án cho phép theo đề xuất của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản tính từ thời điểm thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. 

Đối tượng áp dụng Luật Phá sản 

Theo Điều 2 Luật Phá sản 2014, đối tượng áp dụng của Luật Phá sản là doanh nghiệp, hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã (gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp, hợp tác xã có thể đang hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, từ công nghiệp, xây dựng, vận tải, thương mại, dịch vụ… khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Luật Phá sản 2014 cũng dành riêng 1 chương quy định về phá sản đối với tổ chức tín dụng (chương 8), theo đó, tổ chức tín dụng khi mất khả năng thanh toán sẽ được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho áp dụng tình trạng kiểm soát đặc biệt nhằm cứu vãn tổ chức đó. Sau khi áp dụng mà vẫn không thành công, tổ chức tín dụng đó sẽ áp dụng thủ tục phá sản như các doanh nghiệp, hợp tác xã thông thườn

Chủ thể không thuộc đối tượng áp dụng Luật Phá sản 2014 là hộ kinh doanh. Đây là chủ thể kinh doanh không có tư cách doanh nghiệp mà kinh doanh với tư cách cá nhân, vì thế không thuộc đối tượng áp dụng Luật Phá sản. Khi kinh doanh thua lỗ, cá nhân, nhóm người hoặc hộ gia đình chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho đến hết nợ. Hộ kinh doanh chấm dứt hoạt động thông qua việc nộp lại bản gốc giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh đa cấp, đồng thời thanh toán đầy đủ các khoản nợ, gồm cả nợ thuế và nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện’.

Thẩm quyền giải quyết việc phá sản 

Theo Điều 8 Luật Phá sản 2014, cơ quan có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là Toà án nhân dân, cụ thể: 

Thứ nhất: Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Tòa án nhân dân cấp tỉnh):

Có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã tại tỉnh đó và thuộc một trong các trường hợp sau: 

– Vụ việc phá sản có tài sản ở nước ngoài hoặc người tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài 

– Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau 

– Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau 

– Vụ việc phá sản thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Tòa án nhân dân cấp huyện) mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết do tính chất phức tạp của vụ việc. 

Thứ hai: Tòa án nhân dân cấp huyện

 Có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đó và không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh. N Như vậy, Luật Phá sản 2014 quy định việc giải quyết phá sản chủ yếu thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh chỉ giải quyết phá sản đối với các vụ việc quy định tại khoản 1 Điều 8.

Quy định này khác biệt cơ bản với Luật Phá sản 2004, khi Luật này quy định thẩm quyền giải quyết phá sản chủ yếu thuộc về TAND cấp tỉnh. Cụ thể, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh; còn TAND cấp huyện chỉ giải quyết phá sản đối với hợp tác xã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện.

Thẩm quyền của TAND cấp huyện không chỉ được mở rộng đối với việc giải quyết phá sản, mà còn trong việc giải quyết các tranh chấp về kinh doanh thương mại’. Điều này là phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, khi các doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán và các tranh chấp về kinh doanh thương mại ngày càng nhiều và phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân cấp về thẩm quyền mà không chỉ tập trung TAND cấp tỉnh.

Tuy nhiên, việc mở rộng thẩm quyền cho TAND cấp huyện cũng đặt ra yêu cầu cần thiết phải nâng cao trình độ, kỹ năng xét xử cho Thẩm phán; cơ sở vật chất cũng như các điều kiện khác cho TAND cấp huyện để đảm nhiệm được các trọng trách trên. 

Cùng với việc tham gia giải quyết phá sản của Toà án, đại diện là Chánh án TAND, Thẩm phán; việc giải quyết phá sản còn có sự tham gia của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên; Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên. Đây là các chủ thể đại diện cho Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện các quyền trong quá trình giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã; giám sát việc thực hiện các quyền đó cũng như thực thi quyết định tuyên bố phá sản của Toà.

Bên cạnh đó, việc giải quyết phá sản còn có sự tham gia của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản. Đây là chủ thể mới ra đời theo Luật Phá sản 2014, thay thế cho chủ thể trước đây là Tổ quản lý thanh lý tài sản bao gồm các thành phần như chấp hành viên, cán bộ Toà án, đại diện chủ nợ, đại diện doanh nghiệp mắc nợ… Quản tài viên phải là người có đủ điều kiện như: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan, có chứng chỉ hành nghề Quản tài viên.

Những người sau đây được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên: luật sư; kiểm toán viên, người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng và có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo (Điều 12 Luật Phá sản 2014). Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản bao gồm công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân trong đó công ty hợp danh có tối thiểu hai thành viên hợp danh là Quản tài viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của công ty hợp danh là Quản tài viên; doanh nghiệp tư nhân có chủ doanh nghiệp là Quản tài viên, đồng thời là Giám đốc.

Việc ra đời chủ thể mới này đã hình thành một nghề mới trong xã hội: nghề quản lý thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản; hình thành một chủ thể mới trong xã hội: chủ thể chuyên cung cấp dịch vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản để hưởng thù lao. Sự ra đời và tham gia vào giải quyết phá sản của chủ thể này khiến việc quản lý thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị giải quyết phá sản trở nên chuyên nghiệp, hiệu quả, tránh thất thoát; tuy nhiên cũng khiến doanh nghiệp, hợp tác xã đang bị giải quyết phá sản phải mất một khoản tiền để chi trả cho dịch vụ này.

Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong tố tụng phá sản 

* Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản (Điều 9 Luật Phá sản 2014) 

– Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường hợp cần thiết. 

– Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản. 

– Quyết định chỉ định hoặc thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. 

– Giám sát hoạt động của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. 

– Quyết định việc thực hiện kiểm toán doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong trường hợp cần thiết. 

– Quyết định việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán sau khi mở thủ tục phá sản để bảo đảm chi phí phá sản. 

– Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật. 

– Áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền dẫn giải đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán theo quy định của pháp luật. 

– Tổ chức Hội nghị chủ nợ. 

– Quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. 

– Quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản. 

– Quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. 

– Áp dụng biện pháp xử phạt hành chính, đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật. 

– Tham khảo quyết định giải quyết phá sản trước đó trong vụ việc phá sản tương tự theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. BÀ – Phải từ chối giải quyết phá sản nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 10 của Luật này. 

– Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. 

* Quyền, nghĩa vụ của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

– Quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, gồm: 

+ Xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã 

+ Lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ 

+ Bảo quản tài sản; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán; ngăn chặn việc tẩu tán tài sản: tố i da hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán, thanh lý tài sản

+ Giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của pháp luật 

+ Được thuê cá nhân, tổ chức thực hiện công việc theo quy định của pháp luật 

+ Đề xuất với Thẩm phán về việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm chi phí phá sản 

+ Bán tài sản theo quyết định của Thẩm phán để bảo đảm chi phí phá sản 

+ Tổ chức việc định giá, thanh lý tài sản theo quy định; báo cáo cơ quan thi hành án dân sự, thông báo đến người tham gia thủ tục phá sản có liên quan về việc giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện thanh lý tài sản

+ Gửi các khoản tiền thu được vào tài khoản do Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền mở tại ngân hàng

– Đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật. 

– Báo cáo về tình trạng tài sản, công nợ và hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã, tham gia xây dựng kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. 

– Đề nghị Thẩm phán tiến hành các công việc sau:

+ Thu thập tài liệu, chứng cứ 

+ Tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp 

+ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; áp dụng biện pháp xử phạt hành chính; chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật. 

– Được hưởng thù lao và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật. 

– Báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo yêu cầu của Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự; chịu trách nhiệm trước Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. 

* Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự (Điều 17 Luật Phá sản 2014) 

– Thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu, quyết định tuyên bố phá sản và các quyết định khác theo quy định của Luật Phá sản 2014. 

– Yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức thực hiện việc định giá, thanh lý tài sản; thực hiện việc thanh lý tài sản trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 121 Luật Phá sản 2014. Cụ thể: Tài sản mà Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện được việc thanh lý sau 02 năm kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên theo quy định tại khoản 2 Điều này thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải chấm dứt việc thanh lý tài sản và bàn giao toàn bộ giấy tờ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản cho cơ quan thi hành án dân sự xử lý, thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật. 

– Giám sát hoạt động của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh tài sản khi thực hiện thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản; yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản báo cáo việc thanh lý tài sản. 

– Đề xuất Tòa án nhân dân thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình thực hiện việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản nếu thuộc một trong các trường hợp sau: Vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Phá sản 2014; có căn cứ chứng minh Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ; trường hợp bất khả kháng mà Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện được nhiệm vụ. 

– Phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quyết định của Tòa án nhân dân. 

– Quyết định kết thúc việc thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. 

– Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. 

* Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết phá sản (Điều 21 Luật Phá sản 2014) 

– Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết phá sản, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của Luật này. 

– Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp xem xét kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân; kiểm sát các quyết định giải quyết phá sản của Tòa án nhân dân. 

* Quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản (Điều 18 Luật Phá sản 2014) 

– Thực hiện yêu cầu của Thẩm phán, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về phá sản. 

– Cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết phá sản. 

– Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình để giao nộp cho Tòa án nhân dân. LH – Đề nghị Thẩm phán, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ mà tự mình không thể thực hiện được hoặc trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá tài sản; đề nghị Thẩm phán quyết định kiểm toán doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán; đề nghị Thẩm phán triệu tập người làm chứng. 

– Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do người tham gia thủ tục phá sản khác xuất trình hoặc do Thẩm phán thu thập. 

– Đề nghị áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. – Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. 

– Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. 

– Tham gia Hội nghị chủ nợ. 

– Đề nghị thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản khi rơi vào các trường hợp Luật định (Điều 46 Luật Phá sản 2014). 

– Đề nghị Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bổ sung chủ nợ, người mắc nợ vào danh sách chủ nợ, danh sách người 

mắc nợ.

– Đề xuất với Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về việc thu hồi các khoản tiền, tài sản của người mắc nợ.

– Phải có mặt theo yêu cầu của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, giấy triệu tập của Tòa án nhân dân và chấp hành các quyết định của Tòa án nhân dân trong quá trình giải quyết phá sản. 

– Tham gia vào việc quản lý, thanh lý tài sản theo yêu cầu của Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. 

– Đề nghị xem xét lại quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của Luật này. 

– Trường hợp cá nhân tham gia thủ tục phá sản chết thì người thừa kế hợp pháp của họ thực hiện quyền, nghĩa vụ quy định trên.

* Quyền, nghĩa vụ của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 19 Luật Phá sản 2014) 

– Quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản theo quy định tại Điều 18 của Luật này. 

– Đề xuất với Tòa án nhân dân tên Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước khi mở thủ tục phá sản. 

– Nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường hợp không phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản. 

– Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải trung thực. 

* Quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán (Điều 20 Luật Phá sản 2014) 

– Quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản theo quy định tại Điều 18 của Luật này. 

– Được đưa ra ý kiến về việc chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. 

– Phải thông báo công khai về quyết định mở thủ tục phá sản ngay sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản. 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com