1.Chủ thể của sở hữu nhà nước BLDS

Điều 201 quy định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước”. Điều luật còn quy định thêm rằng Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước. 

 Tài sản thuộc sở hữu nhà nước 

Có tài sản thuộc sở hữu nhà nước một cách tuyệt đối, nghĩa là không bao giờ có thể được chuyển nhượng để trở thành tài sản thuộc sỏ hữu của các chủ thể khác và có những tài sản thuộc sở hữu nhà nước nhưng có thể được chuyển nhượng để trở thành đối tượng của những hình thức sở hữu khác. Ta tạm gọi các tài sản thuộc nhóm thứ nhất là tài sản công của nhà nước; các tài sản thuộc nhóm thứ hai là tài sản tư của nhà nước.

– Tài sản công của nhà nước: tất cả các tài sản công của nhà nước đều có chung một đặc điểm: chỉ có thể được sử dụng vì lợi ích công cộng. Tài sản không thể được dùng vào việc nào khác ngoài việc phục vụ cho tất cả mọi người. Đó là: đất đai, rừng, núi, sông hồ, nguồn nước, công trình giao thông công cộng thủy, bộ, đường sắt, đường không, công trình quốc phòng, cơ sở công nghiệp quốc phòng, cơ sở cung ứng dịch vụ công cộng (Điện, chiếu sáng công cộng, thông tin liên lạc, nước..), các di tích lịch sử, văn hóa thuộc khối tài sản quốc gia..

– Tài sản tư của nhà nước: bao gồm tất cả những gì trong khối tài sản quốc gia mà không phải là tài sản công của nhà nước. Thuộc nhóm này hầu hết là những tài sản được giao cho các cơ quan Nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội đẻ sử dụng: nhà làm việc, nhà xưởng, trang thiết bị, máy móc chuyên dùng, tiền vốn…

Sử dụng tài sản thuộc sở hữu nhà nước 

Các tài sản thuộc sở hữu nhà nước phải được sử dụng có hiệu quả và phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Việc sử dụng tài sản thuộc sỏ hữu nhà nước rất đa dạng. Một số tài sản được dành cho tất cả mọi người để sử dụng chung một cách trực tiếp: sông, hồ lưu thông tự do, đường bộ… bất kỳ ai cũng có quyền sử dụng các tài sản này với điều kiện tôn trọng các quy tắc hành chính và quyền sử dụng của người khác. Có những tài sản được giao cho cơ quan cung ứng dịch vụ công cộng để khai thác nhằm phục vụ cho tất cả mọi người: đường sắt được cơ quan quản lý đường sắt sử dụng để chuyên chở hành khách, hàng hóa; mạng lưới điện quốc gia được giao cho tổng công ty điện lực để cung ứng điện cho nhân dân. Những tài sản giao cho doanh nghiệp Nhà nước khai thác nhằm tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và làm gia tăng tích lũy thuộc sở hữu nhà nước. Cũng có tài sản được giao cho các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước (bảo tàng, bảo tồn, thư viện…) để phục vụ cho các sinh hoạt tinh thần hoặc đáp ứng nhu cầu tích lũy kiến thức, vui chơi giải trí của người dân.

Quản lý Nhà nước đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước

Tài sản thuộc sở hữu nhà nước được đặt dưới sự quản lý thống nhất của Chính phủ. Tài sản thuộc sở hữu nhà nước được giao cho các cơ quan Nhà nước, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp để sử dụng. Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý sử dụng tài sản đó (BLDS Điều 204 khoản 1, Điều 205 khoản 1). Đối với các tài sản thuộc sở hữu nhà nước được đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước, thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp (BLDS Điều 203 khoản 1).

 Bảo vệ sở hữu nhà nước

Các tài sản công thuộc sở hữu nhà nước không thể được chuyển nhượng và không thể bị kê biên. Có một số tài sản tư thuộc sở hữu nhà nước có thể được chuyển nhượng dưới sự kiểm soát và giám sát của cơ quan tài chính nhưng trên nguyên tắc không thể bị kê biên. Và trong bất kỳ trường hợp nào, tài sản thuộc sở hữu nhà nước không thể là đối tượng của quyền sở hữu được xác lập theo thời hiệu (BLDS Điều 247 khoản 2).

2. Sở hữu tập thể.

Nhóm chủ thể của sở hữu tập thể bao gồm các hợp tác xã và các tổ chức kinh tế tập thể có tư cách pháp nhân. Các tài sản thuộc sở hữu tập thể được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, thu nhập hợp pháp do sản xuất, kinh doanh, được Nhà nước hỗ trợ hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật (BLDS Điều 208 và 209). “Việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu tập thể phải tuân theo pháp luật, phù hợp với điều lệ của tập thể đó, bảo đảm sự phát triển ổn định của sở hữu tập thể” (BLDS Điều 210 khoản 1). Sở hữu tập thể đặt cơ sở cho việc tương trợ giữa những người lao động trong lao động sản xuất, kinh doanh. Bởi vậy, “tài sản thuộc sở hữu tập thể được giao cho các thành viên khai thác công dụng bằng sức lao động của mình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phục vụ nhu cầu mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế chung và lợi ích, nhu cầu của các thành viên” (Điều 210 khoản 2).“Thành viên của tập thể có quyền được ưu tiên mua, thuê, thuê khoán tài sản thuộc sở hữu tập thể “ (Điều 210 khoản 3).

3.Sở hữu của các pháp nhân không hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận

Tài sản

Tài sản thuộc sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội – là những tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, các tặng cho chung cũng như từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật (BLDS Điều 228). Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội có thể được Nhà nước chuyển giao quyền sở hữu đối với một số tài sản cần thiết cho hoạt động của tổ chức đó (Điều 228 khoản 1) Tài sản thuộc sở hữu của các tổ chức chính trị- xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp là tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, tài sản được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với những quy định của pháp luật và phù hợp với mục đích hoạt đông của tổ chức đó được quy định trong điều lệ.(Điều 231 BLDS).

 Thực hiện quyền sở hữu

Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị- xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình theo quy định của pháp luật và phù hợp với mục đích hoạt động của tổ chức đó được quy định trong điều lệ (BLDS Điều 229 và 232).

4. Sở hữu chung hỗn hợp là gì ?

 

Sở hữu chung hỗn hợp là một phạm trù kinh tế để chỉ một hình thức sở hữu đối với tài sản của các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh thu lơi nhuận.

Đặc điểm của chế độ kinh tế ở nước ta hiện nay là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa”. Với chính sách mở rộng giao lưu và hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á và tất cả các nước trên thế giới khổng phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau… thì sở hữu hỗn hợp là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho việc liên doanh, liên kết giũa các thành phần kinh tế khác nhau trong và ngoài nước.

Trong sở hữu chung hỗn hợp, các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thoả thuận theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện về tài sản và số lượng vốn góp để tiến hành sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.

Trên thực tế, sở hữu hỗn hợp là sự phát triển ở một trình độ cao của sở hữu chung trước yêu cầu mới về vốn, về quy mô phát triển có sự đa dạng trong sản xuất, kinh doanh trên cơ sò đan xen, liên kết của các thành phần kinh tế khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Tiêu biểu cho cách thức thực hiện hình thức sở hữu này là việc góp vốn, góp tài sản, mua bán cổ phiếu ở các công ty cổ phần và tới đây là việc mua bán tại thị trường chứng khoán. Đây là một thực tế đã trở nên khá sống động của sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển hiện nay.

Cùng với sự hình thành thị trường vốn đã tạo nên loại hình sở hữu chung hỗn hợp có những nét đặc thù khác biệt so với hình thức sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Do mục đích hình thành loại sở hữu chung hỗn hợp là sản xuất, kinh doanh cho nên việc góp vốn, tài sản trong sở hữu chung hỗn hợp làm cho việc quản lý tài sản, tổ chức điều hành khác với sở hữu chung theo phần hoặc sở hữu chung hợp nhất.

Quyền sở hữu chung hỗn hợp nếu hiểu là một phạm trù pháp lý gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, vốn của các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế đã tự nguyện tham gia thành lập một nhóm chủ thể, vì vậy các chủ sở hữu tài sản thuộc các thành phần kinh tế có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 209 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS)

Nhà nước quy định và bảo hộ quyền sở hữu chung hỗn hợp đối với các tài sản là tư liệu sản xuất, công cụ lao động và các loại vốn đã đóng góp để tạo hành lang pháp lý cho cá nhân và các loại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau an tâm đầu tư cùng sản xuất kinh doanh.

5. Chủ thể và khách thể của sở hữu chung hỗn hợp

Chủ thể của sở hữu chung hỗn hợp

Chủ thể của sở hữu chung hỗn hợp là nhóm cá nhân hoặc nhóm pháp nhân,.. thuộc các thành phần kinh tế cùng liên kết, hợp tác sản xuất, kinh doanh

Khách thể của sở hữu chung hỗn hợp

Khách thể của sở hữu chung hỗn hợp là những tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các chủ sở hữu, lợi nhuận hợp pháp thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật.

Phạm vi khách thể của sở hữu chung hỗn hợp đa dạng và phong phú bao gồm: Các nguồn góp vốn bằng tiền (kể cả ngoại tệ), cửa hàng thương mại, bằng phát minh sáng chế, quyền thuê mướn, kim khí quý đá quý hoặc các tặng phẩm đặc biệt… Các tài sân là tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng phục vụ cho việc sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận cũng thuộc khách thể sở hữu chung hỗn hợp.

Như các loại sở hữu chung khác, những tài sản đóng góp hợp pháp hoặc thu được từ quá trình sản xuất kinh doanh hợp pháp trong sở hữu chung hỗn hợp không bị hạn chế về số lượng, giá trị nhất là trong nhũng ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Tuy nhiên đối với những tài sản mà pháp luật quy định thuộc sở hữu toàn dân thì không thể thuộc khách thể sở hữu chung hỗn hợp.

Ví dụ: Các kho hàng, nhà xưởng xây dựng trên đất hoặc những công trình khác đều thuộc sở hữu chung hỗn hợp. Nhưng đất đai không phải là tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp. Cá nhân, tổ chức chỉ có thể góp tài sản bằng quyền sử dụng đất theo quy định của BLDS và pháp luật đất đai.

Luật LVN Group (sưu tầm và biên tập)