1. Giới thiệu Auguste Comte

Auguste Comte sinh ra tại Montpellier trong một gia đình kitô giáo và theo xu hướng quân chủ, ở tây nam nước Pháp; nhưng ông đã trở thành một người có tư tưởng tự do và cách mạng rất sớm. Năm 1814, Sau khi học xong phổ thông, ông trúng tuyển vào Trường Bách khoa Paris. Đây là ngôi trường nổi tiếng với những đào tạo chuyên sâu về Chủ nghĩa cộng hòa và tiến bộ. Khi trường này đóng cửa vào năm 1816 để tái tổ chức, Comte rời trường và tiếp tục học tại trường Y ở Montpellier. Khi trường Bách khoa mở lại ông cũng không xin quay lại học.

Sau khi trở về Montpellier, Auguste Comte nhận ra sự khác biệt với gia đình và quyết định trở lại Paris, ông kiếm sống bằng nhiều việc vụn vặt. Tháng 8 năm 1817 Comte trở thành học sinh và thư ký cho Claude Henri de Rouvroy, Comte de Saint-Simon, những người đã đưa ông tiếp xúc với giới tri thức. Chính trong thời gian này Comte đã cho xuất bản những tiểu luận trong rất nhiều ấn bản đỡ đầu bởi Saint-Simon, L’Industrie, Le Politique, Le Censeur Européen và L’Organisateur, dù không xuất bản dưới tên riêng cho tới tận tác phẩm “La séparation générale des entre les opinions et les désirs” năm 1819. Năm 1824, Comte tách khỏi Saint-Simon do có những khác biệt không thể dung hòa.

Comte sau đó đã nhận ra những gì ông muốn làm – đó là tiếp tục nghiên cứu thuyết thực chứng. Ông cho xuất bản Plan de travaux scientifiques nécessaires pour réorganiser la société (1822), dù vậy ông vẫn không nhận được một công việc ổn định, cuộc sống của Comte phải dựa vào tiền hỗ trợ từ bạn bè. Năm 1826, ông bắt đầu giảng giáo trình triết học thực chứng. Ông kết hôn với Caroline Massin, nhưng ly hôn vào năm 1842. Năm 1826 Comte được đưa tới bệnh viện thần kinh nhưng rời viện trong tình trạng chưa được chữa trị vì ông muốn tiếp tục công việc dang dở. Trong khoảng thời gian này cho tới khi ly hôn, Comte cho xuất bản sáu tập của Cours.

Auguste Comte phát triển tình bạn khá thân thiết với John Stuart Mill. Từ 1844, Comte sống với Clotilde de Vaux, mối quan hệ chỉ trên lý thuyết. Sau khi cô mất năm 1846, Comte cùng Stuart Mill phát triển một cái gọi là “tôn giáo nhân văn” mới. Ông xuất bản bốn cuốn của Système de politique positive (1851 – 1854). Tác phẩm cuối cùng, tập đầu tiên của “La Synthèse Subjective” được xuất bản năm 1856.

Auguste Comte mất ở Paris vào ngày 5 tháng 9 năm 1857 và được chôn cất ở nghĩa trang nổi tiếng Père Lachaise. Căn hộ mà ông sống từ 1841-1857 hiện được bảo tồn và đổi tên thành Maison d’Auguste Comte, tòa nhà nằm ở số 10 rue Monsieur-le-Prince, Paris.

 

2. Auguste Comte phân chia các lĩnh vực khoa học

Comte phân chia các lĩnh vực khoa học theo nấc thang thấp dần (cấu trúc hình chóp) căn cứ vào tính giản đơn và tính trừu tượng của chúng.

Theo ông, khoa học cơ bản đầu tiên là toán học, khoa học về những khách thể đơn giản nhất, đồng thời là khoa học trừu tượng nhất trong số các khoa học.

Các khoa học tiếp theo toán học gồm có thiên văn, vật lý, hóa học, sinh học, và cuối cùng là “vật lý xã hội”, hay xã hội học. Các khoa học đi sau không thể đơn giản rút ra từ các khoa học đi trước, bởi lẽ chúng phức tạp hơn về cấp độ. Cái sau tuân thủ các quy luật chung của tất cả các giai đoạn phát triển từ trước cho đến lúc đó, đồng thời lại có các quy luật đặc trưng của riêng mình. Bảng phân loại khoa học này, theo Comte, sẽ phục hồi trật tự tự nhiên và trật tự lịch sử của các khoa học đã hình thành từ lâu. Chẳng hạn, toán học chiếm vị trí đầu tiên trong bảng phân loại khoa học không chỉ vì nó là khoa học ra đời sớm nhất, mà còn vì nó là khoa học đơn giản xét như khoa học thực chứng, gắn với sự sinh thành loài người. Tương tự như vậy xã hội học, khoa học cuối cùng trong bảng phân loại, được xác định bằng các dấu hiệu của tính phức tạp và tính cụ thể, cũng đồng thời là khoa học muộn nhất gia nhập vào khoa học thực chứng.

 

3. Xã hội học theo Auguste Comte

 Hiểu theo nghĩa rộng xã hội học là khoa học về các lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội, là khoa học tổng hợp, thống nhất các ngành khoa học khác. Chức năng của xã hội học là tìm hiểu các vấn đề của con người, phát hiện và phân tích các quy luật vận động của xã hội, qua đó góp phần tổ chức đời sống xã hội. Vấn đề mấu chốt, theo Comte, là “phát hiện”quy luật vận động. Quy luật xã hội phức tạp hơn quy luật tự nhiên, bởi lẽ đời sống con người phức tạp hơn tự nhiên. Cái thứ nhất hình thành từ hoạt động của con người, cái thứ hai – từ hoạt động mù quáng và vô thức của tự nhiên.

Với thuật ngữ “vật lý xã hội” mà đôi khi Comte dùng thay cho “xã hội học” là sự vay muợn từ T. Hobbes, nhà triết học Anh thế kỷ XVII với học thuyết Khế ước xã hội nổi tiếng. Vật lý xã hội, theo Hobbes, xem các “vật thể xã hội” là đối tượng nghiên cứu của mình. Nếu trong tự nhiên có lực hút và lực đẩy, thì trong trạng thái tự nhiên của loài người có “chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”. Comte chỉ vay mượn thuật ngữ, chứ không vay mượn cách tiếp cận đã thuộc về quá khứ của Hobbes.

Theo môtíp vật lý học Comte chia xã hội học ra thành tĩnh lực học xã hội và động lực học xã hội.

Tĩnh lực học nghiên cứu trạng thái “tĩnh” của xã hội, gồm các qunn hệ, kết cấu, tính chất xã hội, những điều kiện tồn tại của xã hội, nói khác đi, nó nghiên cứu trật tự bền vững tương đối của xã hội.

Có ba vấn đề cơ bản của tĩnh lực học, đó là: cái gì chi phối thường xuyên hoạt động (có lý trí) của con người? Đơn vị nền tảng của xã hội là gì? Nguyên tắc nào đóng vai trò chủ đạo trong đời sống cộng đồng?

Với những vấn đề cơ bản của tĩnh lực học được Auguste Comte trả lời như sau:

– Với vấn đề “cái gì chi phối thường xuyên hoạt động (có lý trí) của con người?”. đó chính là tình cảm, ý chí và bản năng nói chung, trong đó có bản năng sinh tồn, hoạt động truyền giống, hướng đến lợi ích. Trong hai loại bản năng – bản năng cá nhân (tìm kiếm lợi ích cho mình) và bản năng xã hội (xem lợi ích xã hội là căn bản) – thì cái nào chi phối cái nào ? Do chỗ xã hội được hình thành từ những cá nhân sống, nên lợi ích cá nhân chi phối lợi ích xã hội. Điều này có nghĩa là nếu thủ tiêu lợi ích cá nhân, thì hoạt động xã hội cũng trở nên vô nghĩa và mất phương hướng. Lẽ cố nhiên cá nhân được đề cập đến ở đây không phải là những cá nhân vị kỷ tàn nhẫn, mà tự đặt mình trong quan hệ hài hòa, bền chặt với những người khác, với cái toàn thể, với cộng đồng.

– Đối với vấn đề thứ hai “Đơn vị nền tảng của xã hội là gì? “ câu trả lời đơn giản hơn. Theo Comte, xã hội không phải là phép cộng của những cá nhân riêng lẽ, mà là tổng thể quan hệ giữa các thành tố hữu cơ, trong đó gia đình là đơn vị nền tảng, hay nói một cách hình tượng, là hình Ảnh thu nhỏ của xã hội.

– “Nguyên tắc nào đóng vai trò chủ đạo trong đời sống cộng đồng?” => Nếu gia đình là tế bào của xã hội, thì các nguyên tắc hình thành trong sinh hoạt gia đình có ý nghĩa to lớn đối với việc xác lập các chuẩn mực và các quy tắc ứng xử xã hội. Đồng cảm và phục tùng là nguyên tắc chủ đạo trong đời sống chung. Đồng cảm liên quan đến đạo đức, phục tùng thuộc về lĩnh vực pháp luật. Tác dụng của việc tuân thủ nguyên tắc này là đời sống xã hội không bị xáo trộn. Nguyên tắc đồng cảm của Comte mang đậm dấu ấn của “tình yêu phổ quát” của triết học nhân bản Feuerbach. Sự đồng cảm quy về quan hệ chân chính, đích thực con người, còn lòng hận thù, đố kỵ – quan hệ không chân chính, không con người.

Động lực học nghiên cứu trạng thái “động”, nghĩa là phát hiện các quy luật vận động và phát triển của xã hội, tìm hiểu tiến bộ xã hội. Vai trò quyết định của tiến bộ xã hội là hoạt động tinh thần, lý trí, là giáo dục – sự chuẩn bị thường xuyên cho mỗi cá nhân nắm lấy vận hội lịch sử để phát triển và điều chỉnh hành vi của mình. Hoàn thiện đạo đức là tác nhân kích thích sự dấn thân của con người trong cuộc sống. Tiến bộ của nhân loại về mặt thời gian là minh chứng cho những đổi thay của hoạt động lý trí, tinh thần, đạo đức theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Các điều kiện khác, trong đó có điều kiện vật chất, khí hậu, khoáng sản tự nhiên …làm nhanh hay chậm sự phát triển xã hội, nhưng không quyết định. Không có con người hoạt động thì những yếu tố vừa nêu mất đi giá trị nhân bản của chúng.

Trong việc xác định dòng chảy không ngừng của lịch sử Comte chủ trương quan điểm về tính thống nhất, bất khả phân của lịch sử. Theo Comte, cách phân chia các thời kỷ lịch sử phổ biến đối với các dân tộc trên thế giới là cách phân chia theo niên đại, nhờ đó mà chúng ta có thể hình dung về một bức tranh lịch sử sống động nhưng thống nhất trong tiến trình chung, mà ở đó mỗi dân tộc đều để lại dấu ấn của mình.

Quan hệ tĩnh lực học – động lực học là quan hệ chi phối và lệ thuộc vào nhau. Tư tưởng chủ đạo là ổn định để phát triển, phát triển trong ổn định, tiến bộ trong khuôn khổ trật tự. Comte không thừa nhận cách mạng xã hội, vì nó phá vỡ trật tự. Không tiến bộ nào, không sự phát triển nào, nhất là trong đời sống con người, lại rắp tâm phá vỡ những chuẩn mực đã được thừa nhận, để rơi vào trạng thái vô chính phủ. Chủ nghĩa thực chứng ở bình diện xã hội học = Tình yêu – Trật tự – Tiến bộ. Những năm cuối đời Comte suy nghĩ về việc xác lập tôn giáo mới theo kiểu “tôn giáo không có Chúa” của Feuerbach, với tên gọi khác – Nhân đạo giáo, biến đối tượng sùng bái từ Chúa trời sang Loài người (chứ không phải Con người). Nhân đạo giáo, cũng như Kytô giáo, có tổ chức của mình, với những phẩm hàm và thứ bậc khác nhau, từ tín đồ, đến các tăng lữ, và cao nhất là giáo chủ.  Khởi đầu sự nghiệp bằng tư tưởng chống tôn giáo, giờ đây Comte lại trở về với tôn giáo đặc biệt của ông, đó là: “Nhân đạo giáo.”

 

4. Phân tích tĩnh học xã hội của Auguste Comte

Tĩnh học xã hội là bộ phận xã hội học nghiên cứu về trật tự xã hội, cơ cấu xã hội, các thành phần và các mối liên hệ của chúng.

Lúc đầu, Comte nghiên cứu các cá nhân với tư cách là những thành phần hay đơn vị cấu thành của cơ cấu xã hội. Comte xem cá nhân với tư cách là một tập hợp, một hệ thống gồm có:

– Các năng lực và nhu cầu đã có sẵn bên trong cá nhân;

– Các nhu cầu, năng lực được tiếp thu từ bên ngoài qua quá trình cá nhân tham gia vào xã hội.

Sau đó, quan niệm xã hội của Comte thay đổi, ông cho rằng cá nhân không phải là “đơn vị xã hội đích thực”. Comte coi nghiên cứu về cá nhân là nghiên cứu thuộc về lĩnh vực sinh vật học, khác hẳn với nghiên cứu xã hội học chủ yếu phân tích các “đơn vị xã hội”. Đơn vị xã hội cơ bản nhất, sơ đẳng nhất có mặt trong tất cả các đơn vị xã hội khác là “gia đình”. Điều thực sự có ý nghĩa về lý luận xã hội học là quan niệm của Comte về cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội bao giờ cũng được tạo nên từ các cơ cấu xã hội khác đơn giản hơn, gọi là tiểu cơ cấu xã hội. Do đó, hiểu cơ cấu xã hội có nghĩa là nắm bắt được các đặc điểm, các thuộc tính và các mối liên hệ của các tiểu cơ cấu xã hội.

Cơ cấu xã hội phát triển theo con đường tiến hóa từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở mức độ phân hóa, đa dạng hóa và chuyên môn hóa chức năng, cũng như mức độ liên kết giữa các tiểu cơ cấu xã hội. Comte đặt vấn đề nghiên cứu xem làm thế nào duy trì được mối liên kết giữa các bộ phận (các tiểu cơ cấu xã hội) khi mức độ phân hóa chức năng ngày một tăng lên trong xã hội. Comte đưa ra cách giải quyết nhấn mạnh tới vai trò của nhà nước và yếu tố văn hóa, tinh thần xã hội.

– Vai trò của nhà nước: Comte cho rằng ngoài sự phụ thuộc lẫn nhau, sự tập trung quyền lực vào tay nhà nước cho phép điều hòa, phối hợp và liên kết các bộ phận của hệ thống xã hội đảm bảo chống lại sức ép của sự phân hóa và phân rã xã hội.

– Vai trò của văn hóa, tinh thần: Ngoài hành động “vật chất” của nhà nước, yếu tố trí tuệ và đạo đức, thiện trí và thiện cảm của các thành viên xã hội, đóng vai trò là nhân tố duy trì sự liên kết, trật tự xã hội.

 

5. Phân tích động học xã hội của Auguste Comte

Auguste Comte quan tâm đặc biệt đến bộ phận mà ông gọi là động học xã hội (social dynamics). Đó là lĩnh vực nghiên cứu các quy luật biến đổi xã hội trong các hệ thống xã hội theo thời gian. Comte đưa ra quy luật ba giai đoạn để giải thích sự phát triển của các hệ thống tư tưởng và hệ thống cơ cấu xã hội tương ứng.

Theo ông, lịch sử loài người phát triển qua ba giai đoạn:

  • Giai đoạn 1: Thần học;
  • Giai đoạn 2: Siêu hình;
  • Giai đoạn 3: Thực chứng.

=> Theo quy luật ba giai đoạn, mỗi giai đoạn trước là điều kiện phát triển của mỗi giai đoạn sau. Ví dụ, nếu không có hệ thống dòng họ thì khó có thể phát triển các hệ thống tiếp theo như hệ thống chính trị, luật pháp, quân đội và hệ thống xã hội công nghiệp hiện đại. Lịch sử tiến hóa xã hội diễn ra theo con đường tích lũy, tiến hóa (các tư tưởng mới, các hệ thống cơ cấu mới được xây dựng, được bổ sung vào cái cũ);

Việc biến đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác không “trôi chảy, nhẹ nhàng”, mà thường trải qua thời kỳ bất ổn định, mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới. Comte cho rằng, hệ thống văn hóa bao gồm đạo đức và tinh thần quy định sự phát triển của hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội. Dựa vào quy luật ba giai đoạn, Comte cho rằng việc “xã hội học” ra đời ở giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa là một tất yếu lịch sử; và xã hội học là khoa học đứng trên tất cả các khoa học khác. Xã hội học ra đời ở giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa – giai đoạn thực chứng và đó là khoa học phức tạp nhất, phải dựa trên nền tảng khoa học khác. Vì ra đời muộn nên xã hội học ngay lập tức đã phải là một khoa học thực chứng và chiếm vị trí cao nhất trong hệ thống thứ bậc các khoa học.

 

(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).