Quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay? 2023

Việc củng cố hoàn thiện quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai phải bảo đảm quyền quản lí tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với toàn bộ vốn đất đai trong phạm vi cả nước. 

Đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.

Định hướng của việc đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường

Trên cơ sở phân tích những hạn chế của việc xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong thời gian qua và căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đất đai cũng như xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta hiện nay.

Việc đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta được dựa trên những định hướng cơ bản sau đây: 

Thứ nhất, cần xác định rõ ràng hơn, cụ thể hơn người chủ sở hữu toàn dân về đất đai thông qua việc làm rõ vai trò của Nhà nước. Theo đó, Nhà nước là chủ sở hữu đất đai hay là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. 

Thứ hai, việc củng cố hoàn thiện quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai phải bảo đảm quyền quản lí tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với toàn bộ vốn đất đai trong phạm vi cả nước. 

Thứ ba, mở rộng các quyền của người sử dụng đất nhằm khuyến khích tạo điều kiện để họ gắn bó chặt chẽ, lâu dài với đất đai.

Trên cơ sở đó khuyến khích người sử dụng đất đầu tư bồi bổ, cải tạo để nâng cao hiệu quả sử dụng đất; đồng thời, tăng cường trách nhiệm, nghĩa vụ của họ trong việc bảo vệ đất đai.

Thứ tư, xác lập khung pháp lí đồng bộ nhằm đưa quan hệ đất đại vận động theo các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường.

Hay nói cách khác, việc đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai phải hướng tới việc xây dựng và quản lý tốt thị trường bất động sản (trong đó có thị trường quyền sử dụng đất) có tổ chức ở nước ta. 

Sự lựa chọn phương thức đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước Việt Nam 

Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, ở nước ta xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về đổi mới quan hệ sở hữu đất đai.

Việc đổi mới quan hệ sở hữu đất đai ở nước ta dựa trên đòi hỏi khách quan của công tác quản lý, sử dụng đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường đồng thời để khắc phục tình trạng không xác định cụ thể, rõ ràng người chủ sở hữu đất đai. 

Trên cơ sở xem xét, cân nhắc, đánh giá các quan điểm khác nhau về đổi mới quan hệ sở hữu đất đai dựa trên thực tế sử dụng đất và căn cứ vào chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng trong lĩnh vực đất đai.

Nhà nước ta lựa chọn phương thức đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường với những nội dung cụ thể sau: 

– Khẳng định nhất quán đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng xác định rõ hơn vị trí và vai trò của Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu đất đai và thực hiện việc thống nhất quản lí toàn bộ đất đai; 

– Phân biệt rõ giữa chức năng quản lý nhà nước về đất đai với chức năng quản lí các hoạt động kinh doanh về đất đai;

– Đổi mới các chính sách tài chính về đất đai, Nhà nước thực hiện việc định giá đất và thực hiện việc điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai không do sự đầu tư của người sử dụng đất mang lại…; 

– Phân biệt rõ vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đại của Nhà nước với chức năng thống nhất quản lý đất đai của Nhà nước; 

– Mở rộng các quyền của người sử dụng đất, từng bước tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia vào thị trường bất động sản; 

– Xác lập cơ sở pháp lý cho việc ra đời thị trường quyền sử dụng đất có tổ chức, thực hiện việc đấu thầu dự án có sử dụng đất và đấu giá quyền sử dụng đất đi đôi với cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính về đất đai theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai và minh bạch.. 

Thể chế hoá việc đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong Luật đất đai năm 2013

Như đã đề cập ở phần trên, một trong những nội dung cơ bản của việc đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta là việc xác định cụ thể vị trí, vai trò của Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và phương thức thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước.

Vấn đề này được thể chế hoá trong Luật đất đai năm 2013, cụ thể như sau:

Vai trò của Nhà nước với tư cách là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai 

Như đã phân tích ở phần trên, kể từ khi chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ra đời, trong tất cả các văn bản pháp luật của Nhà nước cũng như các văn kiện của Đảng trước khi Luật đất đai năm 2003 được ban hành đều không xác định rõ Nhà nước có phải là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai hay không.

Các văn bản này đều dừng lại ở việc quy định đất đai là của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí.

Chính việc không xác định rõ vai trò của Nhà nước trong quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai đã dẫn đến việc buông lỏng công tác quản lý đất đai, dẫn đến việc đất đai bị sử dụng không đúng mục đích, lãng phí.

Gây nên tình trạng đầu cơ, buôn bán đất đai kiếm lời hoặc gây thiệt hại, thất thoát tài sản quốc gia và không đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội trong sử dụng đất; giao, cho thuê đất, thu hồi đất không đúng quy định của pháp luật…

Những yếu kém này đã tạo ra sự bất bình trong xã hội và phát sinh những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai kéo dài…

Hậu quả là gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân; ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư và làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Để khắc phục những hạn chế này, góp phần duy trì sự ổn định chính trị và làm lành mạnh hoá các quan hệ đất đai…

Luật đất đai năm 2013 được ban hành thay thế Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998, năm 2001 và Luật đất đai năm 2003, đã có các quy định cụ thể về vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu đất đai.

Những quy định này góp phần hoàn thiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Cụ thể: 

Thứ nhất, bên cạnh việc tiếp tục khẳng định quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998, năm 2001 và Luật đất đai năm 2003,

Luật đất đai năm 2013 đã kế thừa quy định của Luật đất đai năm 2003 “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” (khoản 1 Điều 5). Đồng thời, bổ sung quy định quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước với trách nhiệm quản lý đất đai của Nhà nước. 

Thứ hai, không chỉ xác định rõ vai trò là người đại diện chủ sở hữu, Luật đất đai năm 2013 còn quy định cụ thể cho Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đất đai thông qua các biện pháp như sau:

– Quyết định quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất;

– Quyết định mục đích sử dụng đất;

– Quy định hạn mức sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất;

– Quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất;

– Quyết định giá đất;

– Quyết định trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất;

– Quyết định chính sách tài chính về đất đai;

Quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Thứ ba, với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước quyết định chính sách tài chính về đất đai; cụ thể: 

– Quyết định chính sách thu, chi tài chính. 

– Nhà nước điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại thông qua chính sách thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, đầu tư cơ sở hạ tầng và chính sách hỗ trợ cho người có đất thu hồi. 

Đây là một chính sách tài chính mới về đất đai, lần đầu tiên được Luật đất đai năm 2003 đề cập và được Luật đất đai năm 2013 kế thừa và bổ sung.

Chính sách này ra đời dựa trên những đòi hỏi bức xúc về việc thực hiện công bằng xã hội trong sử dụng đất đai và tham khảo kinh nghiệm về quản lý đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường của một số nước khác như: Đài Loan, Trung Quốc, Pháp…

Bởi lẽ, mặc dù pháp luật quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí song trên thực tế, toàn dân với tư cách là cộng đồng chủ sở hữu lại không được hưởng các lợi ích do hình thức sở hữu toàn dân về đất đai hoặc sự đầu tư của xã hội vào đất đai mang lại, những lợi ích này lại rơi vào túi của một nhóm người. Điều này đang gây ra sự phản ứng, bất bình trong xã hội. 

Thứ tư, Luật đất đai năm 2013 đã phân biệt rõ ràng, rành mạch quyền đại diện chủ sở hữu đất đai với trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai.

Trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai được ghi nhận trong Luật đất đai năm 2013 bao gồm các trách nhiệm cụ thể sau:

– Xác định nội dung quản lý nhà nước về đất đai;

– Xác định trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai;

– Bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất;

– Xác định trách nhiệm của Nhà nước về đất ở, đất sản xuất nung nghiệp đối với đồng bào dân tộc thiểu số; 

– Xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng, cung cấp thông tin đất đai.

Việc phân biệt rõ quyền đại diện chủ sở hữu đất đai với trỏch nhiệm của Nhà nước đối với đất đai có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm tăng cường trách nhiệm, vai trò của Nhà nước cũng như nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay. 

Thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai

Một trong những hạn chế của các đạo Luật đất đai được ban hành trước đây là không phân định rõ quyền của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu đất đai và trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai.

Hạn chế này đã góp phần làm giảm hiệu lực quản lí đất đai của Nhà nước. Khắc phục nhược điểm này, Luật đất đai năm 2013 đã quy định rõ việc Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và trỏch nhiệm của Nhà nước đối với đất đai. 

– Quy định về việc Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, ở nước ta tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Một trong những hình thức để nhận dân thực hiện quyền lực của mình là thông qua hệ thống cơ quan dân cử (hệ thống cơ quan quyền lực): Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Hơn nữa, đất đai ở nước ta lại thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.

Chính vì vậy, Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu đất đai thông qua hệ thống cơ quan quyền lực là Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Cụ thể: 

+ Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện quyền ban hành luật, nghị quyết về đất đai, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước; 

+ Hội đồng nhân dân các cấp với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện quyền thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương mình trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;

Thông qua bảng giá đất, việc thu hồi đất thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội và lợi ích quốc gia, công cộng của địa phương theo thẩm quyền do pháp luật đất đai quy định; giám sát việc thi hành pháp luật đất đai tại địa phương. 

+ Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền do pháp luật đất đai quy định. 

– Luật đất đai năm 2013 thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ (khoản 2 Điều 54). 

– Bên cạnh hình thức giám sát gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện (Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp) và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, Luật đất đai năm 2013 bổ sung quy định về quyền giám sát trực tiếp của công dân đối với việc quản lý, sử dụng đất đai (Điều 199). 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com