Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng 2023

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị hiểu hơn về Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng.

Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng là toàn bộ các bước theo quy định của pháp luật mà tổ chức phát hành phải hoàn tất để đưa được chứng khoán tới tay công chúng đầu tư.

(1) Đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng;

(2) Công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng;

(3) Phân phối chứng khoán. 

Điều chỉnh và giám sát sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể phát hành trong suốt quá trình chào bán ra công chúng luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà làm luật và cơ quan quản lí chứng khoán ở tất cả các quốc gia có thị trường chứng khoán. Thậm chí có quốc gia đã ban hành hắn đạo luật gần như chỉ để điều chỉnh hoạt động đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng và công bố thông tin của tổ chức phát hành.

Ví dụ ở Mỹ, sau sự sụp đổ của thị trường tài chính năm 1929, Quốc hội Mỹ đã thông qua Luật chứng khoán năm 1933 (Securities Act of 1933) và đạo luật này được coi là đạo luật được ban hành chủ yếu nhằm điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng với những quy định bao trùm hai lĩnh vực chủ yếu là đăng kí chào bán và công bố thông tin của chủ thể phát hành đại chúng.

>>>>> Xem thêm: Chứng khoán là gì?

Đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng 

Đây là bước khởi đầu mà bất cứ chủ thể nào muốn chào bán chứng khoán ra công chúng cũng phải trải qua. Tuy nhiên, theo pháp luật hiện hành, có một số chủ thể phát hành được miễn đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng, như: Chính phủ; tổ chức tài chính quốc tế được Chính phủ Việt Nam chấp thuận; doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ti cổ phần; chủ thể chào bán chứng khoán theo bản án, quyết định của toà án; chủ thể chào bán chứng khoán là người quản lí, người được nhận tài sản trong các trường hợp doanh nghiệp phá sản hoặc mất khả năng thanh toán. 

Trước đây, khi văn bản pháp luật đầu tiên quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nghị định số 48/1998/NĐ-CP, được ban hành, thay vì đăng kí phát hành (nay gọi là đăng kí chào bán), các chủ thể muốn phát hành chứng khoán ra công chúng phải gửi hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành tới UBCKNN (Điều 3 Nghị định số 48/1998/NĐ-CP).

Quy định này làm cho pháp luật chứng khoán Việt Nam khác xa với bộ phận pháp luật tương ứng ở các nước có thị trường chứng khoán và đặc biệt tạo cảm giác khó hiểu cho người nước ngoài. Nhận thức được sự bất hợp lí này, khi Nghị định số 144/2003/NĐ-CP được ban hành thay thế Nghị định số 48/1998/NĐ-CP, quy định xin phép phát hành chứng khoán ra công chúng đã được các nhà làm luật thay thế bằng quy định đăng kí phát hành chứng khoán ra công chúng (Điều 4 Nghị định số 144/2003/NĐ-CP). Tuy nhiên, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP vẫn yêu cầu các chủ thể phát hành phải có “Đơn đăng kí phát hành” trong hồ sơ đăng kí phát hành gửi tới UBCKNN.

Quy định này ở chừng mực nào đó vẫn thể hiện quan hệ “xin – cho” giữa chủ thể phát hành và UBCKNN. Theo thông lệ, ở các nước có thị trường chứng khoán lâu đời, chủ thể có nhu cầu phát hành chứng khoán ra công chúng, thay vì xin phép, chỉ cần đơn thuần thông báo nhu cầu đó bằng cách đăng kí chào bán với cơ quan quản lý nhà nước đăng kí chào bán đủ mức độ tin cy, hồ sơ này sẽ có hiệu lực.

Kể từ thời điểm đăng kí chào bán có hiệu lực, công ty có quyền tự do chào bán chứng khoán đã đăng kí ra công chúng. Ví dụ ở Mỹ, sau 20 ngày kể từ khi tổ chức phát hành gửi thông báo đăng kí chào bán (registration statement) tới Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán Mỹ, đăng kí chào bán sẽ tự động phát sinh hiệu lực.

Như vậy, tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng không cần chờ giấy phép chào bán hay thậm chí giấy chứng nhận chào bán chứng khoán do cơ quan có thẩm quyền cấp mà chỉ cần đợi đến ngày thứ 21, kể từ khi gửi thông báo đăng kí chào bán tới cơ quan có thẩm quyền, sẽ có quyền chào bán chứng khoán ra công chúng.

Hiển nhiên là Uỷ ban chứng khoán Mỹ vẫn có quyền trì hoãn hoặc đình chỉ việc phát sinh hiệu lực của bản đăng kí chào bán mà mình nhận được bằng cách ra quyết định bằng văn bản không cho phép hồ sơ chào bán phát sinh hiệu lực, nếu phát hiện hồ sơ đăng kí phát hành thiếu hoàn chỉnh hoặc thiếu chính xác.

Hiện nay, Luật chứng khoán đã khắc phục được những nhược điểm trên của cả Nghị định số 48/1998/NĐ-CP và Nghị định số 144/2003/NĐ-CP, theo đó để thực hiện việc đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành sẽ lập hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng gửi UBCKNN.

Tuỳ thuộc vào loại chứng khoán sẽ phát hành mà chủ thể phát hành phải hoàn tất bộ hồ sơ khác nhau. Để phát hành cổ phiếu ra công chúng, chủ thể phát hành cần chuẩn bị bộ hồ sơ đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng, gồm: giấy đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng (thay cho “đơn đăng kí phát hành” trước đây theo Nghị định số 144/2003/NĐ-CP); bản cáo bạch; điều lệ của tổ chức phát hành; quyết định của Đại hội cổ đông về việc thông qua phương án phát hành và phương án sử dụng vốn huy động được từ đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng và cam kết bảo lãnh phát hành nếu chủ thể phát hành dự định sử dụng tổ chức bảo lãnh phát hành để phân phối chứng khoán ra công chúng.

Trước đây, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP quy định hai loại hồ sơ đăng kí phát hành khác nhau cho hai loại phát hành tương ứng là phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và phát hành thên: cổ phiếu ra công chúng để tăng vốn. Hiện nay,

Luật chứng khoán đã đơn giản hoá hồ sơ đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng bằng cách quy định một loại hồ sơ đăng kí chào bán áp dụng chung cho cả chào bán lần đầu và chào bán thêm cô phiếu ra công chúng. Hơn nữa, nội dung của hồ sơ đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng theo Luật chứng khoán cũng được quy định theo hướng giảm nhẹ hơn trước vì đã bỏ bớt một số văn bản mà trước đây doanh nghiệp phải đưa vào hồ sơ đăng kí phát hành như: Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh: danh sách và sơ yếu lý lịch thành viên hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm soát; và báo cáo tài chính của 02 năm liên tục liền trước năm đăng kí phát hành đã được kiểm toán. 

Hồ sơ đăng kí chào bán trái phiếu ra công chúng cũng chứa đựng những văn bản tương tự như hồ sơ đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng, chỉ khác ở hai điểm.

Một thay vì cần có quyết định của đại hội cổ đông thông qua phương án phát hành thì tổ chức phát hành cần có quyết định của hội đồng quản trị (trường hợp công ti cổ phần hoặc hội đồng thành viên (trường hợp công ti trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên) hoặc chủ sở hữu công ty (trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên).

Hai phải có thêm bản cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác. 

Do hoạt động đặc thù của quỹ đầu tư chứng khoán, hồ sơ đăng kí chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng không chỉ gồm những văn bản được tìm thấy trong cả hồ sơ đăng kí chào bán cổ phiếu và trái phiếu (như giấy đăng kí chào bán chứng chỉ quỹ, bản cáo bạch, và cam kết bảo lãnh phát hành) mà còn cần có những văn bản đặc thù như Dự thảo Điều lệ quỹ đầu tư chứng quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. 

Hồ sơ đăng kí chào bán được gửi tới UBCKNN. Tổ chức phát hành phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực và đầy đủ của hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng. Các tổ chức và cá nhân có liên quan như công ti tư vấn phát hành, công ty bảo lãnh phát hành, công ti kiểm toán được chấp thuận, cá nhân kí báo cáo kiểm toán và bất kì tổ chức, cá nhân nào xác nhận hồ sơ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi liên quan đến hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng.

Tuy nhiên, trong thời gian hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng đang được UBCKNN xem xét, tổ chức phát hành có nghĩa vụ tự sửa đổi, bổ sung hồ sơ nếu phát hiện hồ sơ thiếu chính xác hoặc bỏ sót thông tin; hoặc sửa đổi, bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của UBCKNN. 

Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng kí chào bán hợp lệ, UBCKNN xem xét và cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. UBCKNN có quyền từ chối cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. Việc từ chối phải được thể hiện bằng văn bản trong đó nêu rõ lí do. 

Công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng 

Sau khi được cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành chưa được phép chào bán ngay chứng khoán ra công chúng mà còn phải hoàn tất thủ tục công bố thông tin về đợt chào bán chứng khoán đó. Cụ thể là trong vòng bảy ngày kể từ ngày giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực, tổ chức phát hành phải công bố bản thông báo phát hành trên tờ báo điện tử hoặc báo viết trong ba số liên tiếp. Chỉ sau khi đã thông báo về cuộc chào bán theo đúng quy định của pháp luật, việc chào bán chứng khoán ra công chúng mới được phép tiến hành.

Tuy nhiên, trước khi tiến hành phân phối chứng khoán, tổ chức phát hành còn phải đảm bảo rằng người mua chứng khoán đã tiếp cận bản cáo bạch có trong hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng bằng cách sẵn sàng cung cấp bản cáo bạch cho công chúng đầu tư tại các địa điểm ghi trong bản thông báo phát hành.

Trong hai loại văn bản mà tổ chức phát hành cần cung cấp cho nhà đầu tư, bản cáo bạch là tài liệu quan trọng vì có khả năng cung cấp cho công chúng đầu tư những thông tin cần thiết về bản thân tổ chức phát hành như tổ chức bộ máy, bộ máy lãnh đạo, quản trị, báo cáo tài chính…; thông tin về đợt chào bán chứng khoán như điều kiện chào bán, các yếu tố rủi ro, dự kiến kế hoạch lợi nhuận và cổ tức của năm gần nhất, phương án phát hành và phương án sử dụng vốn huy động được…

Trường hợp chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư, bản cáo bạch sẽ chứa đựng thông tin về: Loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; mục tiêu, chiến lược đầu tư; phương pháp và quy trình đầu tư; hạn chế đầu tư; các yếu tố rủi ro của quỹ đầu tư chứng khoán; nội dung cơ bản của điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán; phương án phát hành chứng chỉ quỹ và các thông tin hướng dẫn tham gia đầu tư vào quỹ; thông tin về công ty quản lý quỹ, về ngân hàng giám sát… 

Như vậy, quy định về nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức tư có được những thông tin cần thiết về tổ chức phát hành và loại chứng khoán sắp được chào bán, từ đó có thể đánh giá được mức độ rủi ro của chứng khoán đó và có quyết định đầu tư đúng đắn. Đây là nghĩa vụ hàng đầu của tổ chức phát hành ra công chúng mà luật chứng khoán của tất cả các nước đều quy định nhằm bảo vệ lợi ích thoả đáng của nhà đầu tư. 

Phân phối chứng khoán 

Sau khi đã hoàn tất các công việc cần thiết để bảo đảm những thông tin cần thiết về công ti phát hành và về đợt chào bán tới được công chúng đầu tư, chứng khoán đã đăng kí chào bán mới được phép phân phối ra công chúng. Việc phân phối chứng khoán phải được hoàn tất trong vòng 90 ngày kể từ ngày giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực. Thời hạn này có thể được kéo dài tới 30 ngày với sự chấp thuận của UBCKNN trong trường hợp tổ chức phân phối chứng khoán không thể hoàn tất việc phân phối chứng khoán trong thời hạn luật định. 

Việc chào bán có thể được thực hiện trực tiếp bởi tổ chức phát hành nhưng cũng có thể được thực hiện thông qua các trung gian như tổ chức bảo lãnh phát hành hay đại lí phát hành. Bất kể chủ thể phân phối chứng khoán là ai trong số ba loại chủ thể trên, chứng khoán chào bán phải được phân phối một cách công bằng, công khai, và bảo đảm thời hạn đăng kí mua chứng khoán cho nhà đầu tư tối thiểu là hai mươi ngày. 

Tính công bằng trong phân phối chứng khoán thể hiện ở chỗ, nếu số lượng chứng khoán đăng kí mua vượt quá số lượng chứng khoán được phép phát hành thì tổ chức phát hành hoặc tổ chức được uỷ quyền phát hành phải phân phối hết số chứng khoán được phép chào bán cho nhà đầu tư, tương ứng với tỉ lệ đăng kí mua của từng nhà đầu tư.

Tính công khai trong phân phối chứng khoán thể hiện ở chỗ tổ chức phát hành phải công bố việc chào bán chứng khoán trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật sao cho tất cả những ai quan tâm đều có thể tiếp cận thông tin về đợt chào bán và về bản chất cũng như mức độ rủi ro của loại hàng hoá đặc biệt sắp được tung ra thị trường

Đợt chào bán kết thúc không có nghĩa là các chủ thể tham gia vào quá trình chào bán và phân phối chứng khoán đã hoàn tất mọi trách nhiệm liên quan đến đợt chào bán mà các chủ thể này vẫn còn phải thực hiện một số nghĩa vụ với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và với nhà đầu tư. Trong vòng 10 ngày kể từ khi kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo UBCKNN về kết quả đợt chào bán kèm theo xác nhận của ngân hàng nơi tổ chức phát hành mở tài khoản phong toả và về số tiền thu được từ chào bán chứng khoán.

Trong vòng 30 ngày kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành hoặc tổ chức được uỷ quyền phát hành có nghĩa vụ chuyển giao chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho người mua. 

Việc chào bán chứng khoán ra công chúng có thể bị đình chỉ nếu trong quá trình phân phối chứng khoán UBCKNN phát hiện hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán có thông tin không chính xác hoặc thiếu những thông tin quan trọng, ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của nhà đầu tư hoặc nếu việc phân phối chứng khoán không được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. 

Việc phân phối chứng khoán cũng có thể bị huỷ bỏ nếu quá thời hạn đình chỉ luật định, tổ chức phát hành không khắc phục được những thiếu sót dẫn đến đình chỉ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Trường hợp bị huỷ bỏ đợt chào bán chứng khoán, tổ chức phát hành phải công bố việc huỷ bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng, thu hồi các chứng khoán đã phân phối và trả tiền cho nhà đầu tư theo đúng thời hạn luật định.

>>>>> Xem thêm: Thị trường chứng khoán là gì?

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com