1. Tư pháp là gì?

Theo thuyết tam quyền phân lập thì quyền lực nhà nước bao gồm: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó lập pháp là xây dựng pháp luật, ban hành pháp luật; hành pháp là thi hành pháp luật và tư pháp là giữ gìn, bảo vệ pháp luật, xử lý các việc vi phạm pháp luật.

Ở nước ta, quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, tư pháp là một trong ba quyền lực nhà nước.

Tư pháp được hiểu là giữ gìn, bảo vệ pháp luật, xử lý các việc vi phạm pháp luật, cụ thể bao gồm các hoạt động xét xử của cơ quan toà án và những hoạt động của cơ quan nhà nước khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của toà án như điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp, thi hành án…

2. Quyền tư pháp?

Ở Việt Nam, theo Hiến pháp năm 1946 thì quyền tư pháp là quyền xét xử và cơ quan tư pháp là Toà án. Vì vậy, khi nói đến các đặc trưng của quyền tư pháp cần hiểu đó là đặc trưng của hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, từ Hiến pháp năm 1959 cho đến nay, quyền tư pháp được hiểu là bảo vệ pháp luật, là nền tư pháp của quốc gia, gồm hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước và tổ chức nghề nghiệp mà hoạt động của các cơ quan, tổ chức này trực tiếp hoặc hỗ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

Quyền lực tư pháp (quyền tư pháp) là một bộ phận cấu thành nên quyền lực nhà nước và gắn liền với hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, theo Hiến pháp năm 2013, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Như vậy, khi thực hiện quyền tư pháp cần có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, hay có nhiều cơ quan cùng tham gia thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp sẽ bao gồm: Quyền xét xử của Tòa án (trọng tâm); các quyền khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án và bổ trợ tư pháp của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư pháp nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức để duy trì công lý. Trong đó, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Điều 102 Hiến pháp năm 2013), Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án được coi là cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp.

3. Hoạt động tư pháp là gì?

Hoạt động tư pháp có liên quan mật thiết với khái niệm tư pháp và quyền tư pháp, đó là hình thức hoạt động nhằm thực hiện quyền tư pháp của nhà nước. Về bản chất, hoạt động tư pháp chính là hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tham gia thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, hoạt động tư pháp là hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động và giải quyết các quan hệ pháp luật khác, bao gồm: Hoạt động điều tra; hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoạt động xét xử; hoạt động thi hành án và các hoạt động của các cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền trong việc tiến hành một số hoạt động tư pháp theo trình tự thủ tục tố tụng. Trong đó, hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm.

4. Quy định về việc kiểm sát hoạt động tư pháp

Về mặt tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước, mỗi nhánh quyền lực đều phải bị kiểm soát để đảm bảo tính hợp hiến và hợp pháp. Cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực luôn được đặt ra trong tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là cơ chế giám sát, kiểm soát từ bên ngoài mỗi hệ thống cơ quan, bởi vì nó luôn đạt hiệu quả cao và hạn chế việc vi phạm, lạm dụng quyền lực. Hoạt động tư pháp cũng không thoát ly được việc bị kiểm soát bởi cơ chế giám sát, kiểm soát này. Một trong những phương thức kiểm soát đó là kiểm sát hoạt động tư pháp, đây cũng là một phương thức kiểm soát việc thực hiện quyền lực tư pháp.

Hiến pháp năm 2013 quy định Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (khoản 1 Điều 107). Lần đầu tiên trong Luật tổ chức VKSND năm 2014 đưa ra khái niệm về kiểm sát hoạt động tư pháp như sau: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật” (khoản 1 Điều 4).

Như vậy, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong đó, có thể phân thành 02 nhóm chủ yếu là kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự và kiểm sát hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự.

Trong lĩnh vực hình sự, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự đúng pháp luật. Đặc biệt, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự có quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời với chức năng thực hành quyền công tố.

Đối với kiểm sát hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp chính là một phương thức giám sát, kiểm soát đối với hoạt động tư pháp, nhằm đảm bảo các hoạt động đó được tiến hành đúng pháp luật, hạn chế việc cơ quan tư pháp lạm dụng quyền lực để vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Quy định này khẳng định tư tưởng xuyên suốt: Bất kỳ ở đâu và khi nào có hoạt động tư pháp thì ở đó có trách nhiệm kiểm sát của VKSND, trách nhiệm này xuất hiện từ khi bắt đầu và luôn song hành với việc thực hiện hoạt động tư pháp. Đây là một phương thức kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, mà VKSND là chủ thể kiểm soát nhằm đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tư pháp được thực hiện một cách đúng đắn, nghiêm chỉnh, hạn chế việc lạm quyền từ phía các cơ quan này. Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp là một phương thức kiểm soát, giám sát hiệu quả, có vai trò quan trọng trong phòng ngừa vi phạm pháp luật, khả năng lạm quyền trong hoạt động tư pháp. Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, nếu VKSND phát hiện vi phạm thì có quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, cá nhân khắc phục vi phạm. Đây là sự khác biệt so với các phương thức kiểm tra, giám sát của cơ quan thanh tra (chủ yếu là kiến nghị về các biện pháp xử lý). Bên cạnh đó, so với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân.

Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp là một chức năng hiến định của VKSND, cũng là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho hoạt động tư pháp được thực hiện đúng đắn.

5. Đối tượng, phạm vi và nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp

5.1. Về đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp:

 Với những quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014 và các luật về tố tụng tư pháp, đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp chính là sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong hoạt động tư pháp. Bởi vì kiểm sát hoạt động tư pháp chính là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể trong hoạt động tư pháp. Bản chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp là kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định và hành vi của cá nhân, tổ chức, cơ quan trong hoạt động tư pháp. Như vậy, đối tượng của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp chính là các quyết định và hành vi của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng tư pháp. Việc xác định đúng đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp để phát hiện, kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của các quyết định và hành vi đó có ý nghĩa quan trọng nhằm thực hiện được mục đích của công tác kiểm sát và thực hiện có hiệu quả các quyền năng pháp lý của VKSND, hướng tới mục tiêu bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

5.2. Về phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp:

Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp được xác định ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 4). Bên cạnh đó, các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật được phân chia thành những lĩnh vực khác nhau, gắn với từng giai đoạn tố tụng và từng lĩnh vực khác nhau trong hoạt động tư pháp và được gọi là các công tác kiểm sát. Với mỗi công tác kiểm sát có đối tượng, phạm vi, nội dung (nhiệm vụ, quyền hạn) riêng, nhưng đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và cùng hướng đến mục đích chung của kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm: Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật…

5.3. Nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp:

Trên cơ sở đối tượng, phạm vi, mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp, nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp được xác lập theo các giai đoạn tố tụng và lĩnh vực cụ thể khác nhau trong hoạt động tư pháp, đó chính là các công tác kiểm sát cụ thể trong phạm vi hoạt động tư pháp. Theo khoản 2 Điều 6 Luật tổ chức VKSND năm 2014, nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp bao gồm 09 công tác cụ thể: (1) Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; (2) Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự; (3) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố; (4) Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự; (5) Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; (6) Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; (7) Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; (8) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền; (9) Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp.

Với 09 công tác kiểm sát nêu trên có thể chia thành 02 nhóm: Nhóm 1 – Kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, bao gồm các khâu công tác kiểm sát từ (1) đến (5) (điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều 6) và nhóm 2 – Kiểm sát hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự bao gồm các khâu công tác từ (6) đến (9) (điểm e, g, h, i khoản 2 Điều 6).

Với nhóm 1 – trong lĩnh vực hình sự, phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp được bắt đầu từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cơ sở của xác định thời điểm bắt đầu kiểm sát hoạt động tư pháp là khi quyền công tố được phát động. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự sẽ chấm dứt khi kết thúc các hoạt động tố tụng và mục đích các hoạt động tố tụng đạt được. Nội dung của 05 khâu công tác kiểm sát trong lĩnh vực hình sự này chính là hoạt động xem xét tính hợp pháp của các quyết định và hành vi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đến giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Điều đáng chú ý là nội dung của 05 khâu công tác kiểm sát này luôn gắn chặt với nội dung của chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố. Thông qua việc kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, một mặt để phát hiện vi phạm của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của chủ thể này, mặt khác, là tiền đề quan trọng để VKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.

Với nhóm 2, kiểm sát hoạt động tư pháp trong các lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án dân sự – hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tương trợ tư pháp. Nội dung của 04 khâu công tác kiểm sát này tập trung vào việc kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của các cơ quan, cá nhân, tổ chức trong hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự, như kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án; tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ án hành chính; kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới; kiểm sát hồ sơ thi hành án; kiểm sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong việc thi hành án; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, dân sự, hành chính, tạm giữ, tạm giam… Qua công tác kiểm sát này, nếu phát hiện vi phạm pháp luật, VKSND phải kịp thời kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục vi phạm để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

6. Ý nghĩa, vai trò của kiểm sát hoạt động tư pháp

Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong lịch sử lập hiến, lập pháp của đất nước qua từng giai đoạn đã và đang là minh chứng có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp vẫn phát huy vai trò quan trọng trong giám sát quyền lực tư pháp. Kiểm sát hoạt động tư pháp có tác dụng phòng ngừa và ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng quyền lực công trong hoạt động tư pháp, nhằm phát hiện vi phạm, kịp thời xử lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Ý nghĩa, vai trò của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp được thể hiện qua những nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, về mặt lý luận:

Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước mà Quốc hội giao cho VKSND để giám sát nhánh quyền lực tư pháp. Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước, về bản chất là Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, tuy nhiên có sự phân công, phân cấp trong tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước. Thông qua quy định của Hiến pháp và Luật, Quốc hội giao cho nhiều cơ quan nhà nước giám sát việc thực hiện quyền lực và theo dõi, kiểm tra, yêu cầu các cơ quan đó báo cáo tình hình giám sát. Hoạt động giám sát, kiểm soát của Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 chủ yếu tập trung vào các cơ quan nhà nước ở trung ương và cá nhân đứng đầu cơ quan đó, đây là dạng hoạt động giám sát mang tính chính trị. Để giám sát, kiểm soát quyền lực một cách cụ thể, Quốc hội giao cho cơ quan nhà nước khác có chức năng, nhiệm vụ mang tính chuyên môn cao, như các Ủy ban chuyên trách của Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, hay chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, đây là dạng hoạt động giám sát mang tính chuyên môn. Như vậy, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND bắt nguồn từ chức năng giám sát của Quốc hội, sẽ phát huy hiệu quả bởi được thiết kế như cơ chế quyền lực kéo dài của Quốc hội để giám sát hoạt động tư pháp.

Thứ hai, về mặt pháp lý:

Một là, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có sự độc lập về tổ chức so với các cơ quan bị kiểm sát (đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp). Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, VKSND là hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, được tổ chức theo ngành dọc, không nằm trong hay không bao trùm các cơ quan thực hiện quyền tư pháp và cơ quan tham gia trong hoạt động tư pháp như Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án… Do vậy, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp độc lập, bảo đảm cho hoạt động giám sát được khách quan, trung thực, có hiệu lực, hiệu quả cao.

Hai là, trong hoạt động tư pháp, VKSND là cơ quan duy nhất tham gia toàn bộ các giai đoạn (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, do đó, VKSND có thẩm quyền tham gia vào tất cả các lĩnh vực (tố tụng tư pháp hình sự, dân sự, hành chính, thi hành án…) trong hoạt động tư pháp. Đây là tiền đề và giá trị quan trọng để đảm bảo cho VKSND có khả năng giám sát hiệu quả nhất toàn bộ quá trình tố tụng và các lĩnh vực khác trong hoạt động tư pháp, cũng là để giám sát toàn bộ quá trình thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, với bộ máy tổ chức và hoạt động của VKSND tương đối hoàn thiện để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ mang tính chuyên môn sâu, hoạt động thường xuyên, liên tục, có nhiều chức danh tư pháp theo ngạch. Qua đó, VKSND có đủ cơ sở để phát hiện vi phạm trong hoạt động tư pháp và là điều kiện cần thiết để bảo đảm cho hoạt động giám sát có tính chuyên nghiệp và hiệu quả cao.

Thứ ba, về mặt thực tiễn:

Trong hơn 60 năm qua, từ khi Luật tổ chức VKSND đầu tiên được Quốc hội thông qua cho đến nay, với tư cách là một thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước, VKSND đã và đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp có hiệu quả. Kết quả từ thực tiễn của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp là minh chứng rõ ràng nhất về sự cần thiết của VKSND nói chung và sự cần thiết của cơ chế giám sát hoạt động tư pháp nói riêng. Hàng năm, Viện trưởng VKSND tối cao báo cáo công tác của ngành Kiểm sát nhân dân trước Quốc hội về kết quả thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp đều được đánh giá cao, đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội về công tác này (được thể hiện trong các báo cáo công tác hàng năm của ngành Kiểm sát nhân dân). Qua đó cho thấy, ý nghĩa về thực tiễn của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là đáng ghi nhận, có vai trò quan trọng, là chỗ dựa đáng tin cậy của Quốc hội trong giám sát quyền lực tư pháp. Kiểm sát hoạt động tư pháp vừa là cơ chế kiểm soát từ bên ngoài, độc lập với đối tượng giám sát, nhưng lại có khả năng bao quát và giám sát được toàn bộ, từng hoạt động cụ thể trong quá trình thực hiện hoạt động tư pháp, nhằm đảm bảo Hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh, hạn chế sai phạm, vi phạm của các cơ quan tham gia thực hiện hoạt động tư pháp. Bởi lẽ, VKSND chỉ xem xét đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp dưới phương diện có hợp pháp hay không mà không can thiệp vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan này. Nếu VKSND phát hiện vi phạm thì thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục những vi phạm đó; hoặc tập hợp nhiều vi phạm phổ biến để kiến nghị đến cơ quan quản lý hoặc cơ quan quyền lực nhà nước, cũng như tham mưu cho cấp ủy Đảng để chỉ đạo, khắc phục vi phạm. Vì vậy, hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND không làm cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp, mà hướng đến mục tiêu bảo đảm pháp luật được thực hiện, chấp hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo vệ quyền lợi của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.