Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là gì?

Chế độ tài sản theo thỏa thuận là một trong những nội dung cần thiết của Luật Hôn nhân và Gia đình. Do đó nội dung trình bày dưới đây của chúng tôi sẽ tiến hành làm rõ những nội dung cần thiết có liên quan đến vấn đề này. Mời quý bạn đọc cùng theo dõi nội dung trình bày sau đây của chúng tôi.

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là gì?

1. Khái niệm chế độ tài sản theo thỏa thuận

Chế độ tài sản vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ chồng. Việc quy định chế độ tài sản vợ chồng ở các quốc gia là khác nhau tùy thuộc vào chế độ kinh tế, xã hội cũng như tập cửa hàng, thuần phong, mỹ tục. Pháp luật Hôn nhân và Gia đình thường quy định hai chế độ tài sản vợ chồng: Một là theo pháp luật, hai là theo thỏa thuận.

Chế độ tài sản theo pháp luật là việc pháp luật đề ra các cách thức xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản của họ.

Chế độ tài sản theo thỏa thuận là việc vợ chồng tự thỏa thuận và thỏa thuận cùng với nhau về việc xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Vợ chồng có thể lựa chọn một trong các chế độ tài sản do pháp luật quy định hoặc tự thiết lập một chế độ riêng với điều kiện không trái với quy định của pháp luật. Có rất nhiều cách gọi khác nhau về thỏa thuận của vợ chồng liên quan đến tài sản như: hôn ước, hợp đồng tiền hôn nhân hay thỏa thuận tài sản của vợ chồng,…

2. Đặc điểm của chế độ tài sản theo thỏa thuận ở Việt Nam

– Tài sản giữa vợ chồng sau khi hết hôn gồm khối tài sản được người vợ hoặc người chồng tạo lập trước thời kỳ hôn nhân, khối tài sản được vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, khối tài sản được tặng cho riêng, được tặng cho chung và các hoa lợi lợi tức phát sinh từ các khối tài sản này.

– Luật Hôn nhân và gia đình 2000 mặc dù thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận là cần thiết và đem lại nhiều lợi ích nhưng chỉ quy định duy nhất một chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật. Việc này đem lại nhiều hạn chế. Thứ nhất, quy định của Luật hiện hành không bảo đảm quyền tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản được quy định trong Hiến pháp và Bộ luật Dân sự. Về nguyên tắc, mỗi cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình theo ý chí của mình, miễn sao không xâm phạm đến lợi ích của người khác, không trái với đạo đức xã hội. Thứ hai, việc chỉ áp dụng một chế độ hôn sản pháp định cho tất cả các trường hợp không đáp ứng được nhu cầu của một số cặp vợ chồng. Thực tế, có những trường hợp mà hai người kết hôn muốn tất cả tài sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn cũng như trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung; ngược lại, có những trường hợp mà người kết hôn có nhiều tài sản riêng có nguồn gốc từ gia đình mình, có con riêng hoặc vì lý do kinh doanh riêng, nên muốn thực hiện một chế độ tách riêng tài sản và thỏa thuận với nhau về việc đóng góp cho đời sống chung của gia đình. Đến Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định hai cách thức xác lập chế độ tài sản vợ chồng hoặc theo pháp luật hoặc theo thỏa thuận. Căn cứ tại Điều 28 có quy định:

“Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.”

– Về cách thức: Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng phải được lập thành văn bản và phải được công chứng, chứng thực.

– Thời điểm xác lập: Thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.

– Chế độ tài sản thỏa thuận của vợ chồng ở Việt Nam có những đặc điểm về nội dung sau:

Thứ nhất, trong văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, trước hết vợ, chồng cần xác định rõ những tài sản nào là tài sản riêng của mỗi bên và những tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng. Vì khi xác định được phạm vi các loại tài sản, quyền sở hữu của mỗi bên thì vợ, chồng sẽ thỏa thuận và thống nhất được với nhau các quyền cũng như nghĩa vụ đối với từng loại tài sản.

Thứ hai, trên cơ sở xác định nội dung về tài sản trong thỏa thuận trước đó vợ và chồng thỏa thuận về các quyền của mỗi bên đối với tài sản chung, tài sản riêng cũng như những nghĩa vụ riêng, nghĩa vụ chung về tài sản hai bên phải gánh chịu và những nhu cầu thiết yếu của gia đình sẽ được đảm bảo bằng tài sản chung hay tài sản riêng. Bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ của vợ, chồng; trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận tài sản bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình là tài sản chung nhưng tài sản chung không đủ thì vợ, chồng cần thỏa thuận việc có đóng góp tài sản riêng của mối bên và đóng góp bao nhiêu vào tài sản chung để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho gia đình.

Thứ ba, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng được lập trước khi kết hôn và có hiệu lực kể từ ngày vợ, chồng thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo trình tự, điều kiện và quy định của pháp luật. Xuất phát từ nhu cầu của mỗi bên, vợ chồng có thể thỏa thuận các điều kiện được đưa ra khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa thuận và xác định trong những trường hợp nào một bên hoặc cả hai bên vợ chồng có quyền yêu cầu chấm dứt chế độ tài sản này. Khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa thuận, tài sản sẽ được chia cho vợ chồng theo thủ tục (thỏa thuận hoặc yêu cầu đơn vị có thẩm quyền giải quyết) hoặc theo thỏa thuận của vợ chồng và nguyên tắc chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản đó. Về nguyên tắc tài sản có thể chia theo cách thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hoặc theo nguyên tắc phân chia khác do hai vợ chồng tự thỏa thuận thống nhất với nhau. Và khi có tranh chấp xảy ra, việc giải quyết tranh chấp được ưu tiên áp dụng theo thỏa thuận của vợ chồng.

Thứ tư, ngoài những nội dung chủ yếu nêu trên, trong nội dung của thỏa thuận vợ, chồng có thể thỏa thuận những nội dung khác (ví dụ như vấn đề cấp dưỡng cho cha, mẹ, con …) liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mỗi bên.

3. Ý nghĩa của chế độ tài sản theo thỏa thuận

– Phản ánh sự tiến bộ trong xã hội của một quốc gia: Bản thân chế độ tài sản theo thỏa thuận phản ánh sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hệ thống pháp luật dưới chế độ phong kiến của nước ta thường mang nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, người phụ nữ hầu như không có quyền gì trong gia đình. Người chồng có quyền “mặc nhiên” uỷ quyền cho quyền lợi của gia đình, có quyền ký kết bất kỳ hợp đồng nào liên quan đến tài sản của vợ chồng, dù có giá trị được không, đều đương nhiên được coi là có hiệu lực (Điều 96 – Dân luật Bắc Kỳ). Ở thời đó không có sự bình đẳng giữa vợ và chồng. Việc pháp luật các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thừa nhận chế độ thỏa thuận về tài sản của vợ chồng đã phản ánh tư tưởng tiến bộ. Bởi lẽ, để thực hiện và đạt được các quyền tự do, bình đẳng trong các quan hệ nhân thân giữa vợ chồng (họ, tên, tôn giáo, dân tộc, quốc tịch, chỗ ở, nghề nghiệp…) thì trước hết phải có bình đẳng thực sự trong quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng. Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi phương diện là một trong các nguyên tắc cơ bản theo hệ thống pháp luật về Hôn nhân và Gia đình của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

– Thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt của pháp luật: Từ khi Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 ra đời vợ chồng đã có thêm một sự lựa chọn khi quyết định về chế độ tài sản. Việc thừa nhận chế độ tài sản thỏa thuận giữa vợ chồng thể hiện sự linh hoạt trong pháp luật đồng thời cho thấy sự tiến bộ trong tư duy của các nhà làm luật. Bởi lẽ không nhất thiết vợ chồng chỉ nhất nhất tuân theo pháp luật mà họ còn được tự do ý chí trong việc quyết định chế độ tài sản của mình. Và tất nhiên sự tự quyết này cũng được đặt trong một giới hạn nhất định tránh sự lung tung, bừa bãi.

– Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba khi tham gia quan hệ với vợ, chồng: Khi tham gia giao dịch với người thứ ba, bản thân vợ, chồng phải thông báo cho bên thứ ba biết nếu như trước đó vợ chồng đã thỏa thuận về chế độ tài sản. Điều này sẽ tạo nên sự rành mạch, rõ ràng trong giao dịch bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.

– Phân định rạch ròi tài sản của mỗi bên: Khi chế độ này được lựa chọn thì các bên buộc phải gửi tới thông tin về những nguồn tài sản mà mình đang sở hữu, trên cơ sở đó xác lập nên văn bản thỏa thuận quy định rõ đâu là tài sản riêng và đâu là tài sản đưa vào tài sản chung, tài sản phục vụ nhu cầu đời sống. Nhờ vậy mỗi bên vợ, chồng phân định rạch ròi về tài sản để phục vụ cho nhu cầu riêng và chung của mình. Trong cuộc sống vợ chồng cũng hạn chế được nhiều cãi vã. Đặc biệt đề phòng được tình trạng một trong hai bên kết hôn chỉ vì tài sản của bên còn lại.

– Bảo vệ tài sản của mỗi bên vợ, chồng: Ngoài việc thỏa thuận về tài sản thì trong văn bản thỏa thuận còn quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên đối với tài sản chung, riêng. Chính vì vậy, tài sản của mỗi bên sẽ được bảo vệ chặt chẽ hơn.

– Dễ dàng hơn khi tranh chấp phát sinh: Khi vợ chồng cùng thỏa thuận với nhau để lựa chọn áp dụng một chế độ tài sản cho mình thì khi xảy ra tranh chấp, các đơn vị nhà nước có thẩm quyền sẽ căn cứ vào những nội dung mà hai bên vợ chồng đã thỏa thuận để xem xét tính hợp pháp, hợp lý mà giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp họ không thỏa thuận chế độ tài sản mà mặc nhiên được điều chỉnh bởi chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp định, các đơn vị nhà nước có thẩm quyền sẽ căn cứ vào nội dung đã được quy định trong các văn bản pháp luật liên quan để giải quyết, phân xử. Văn bản thỏa thuận về tài sản này sẽ là căn cứ để Tòa án xác định đâu là tài sản riêng, đâu là tài sản chung và đâu là tài sản phát sinh thêm để giải quyết tranh chấp. Nếu có khi ly hôn, văn bản thỏa thuận về tài sản được xem như luật riêng của các bên. Từ đó, Tòa án chỉ cần căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên nếu như sự thỏa thuận đó hợp pháp.

– Tạo sự thuận lợi cho hoạt động riêng của mỗi bên: Phần lớn các vấn đề phát sinh cãi vã của các cặp vợ chồng xuất phát từ vấn đề tiền bạc như quyết định ai là người giữ tiền sau hôn nhân, bất đồng quan điểm trong việc sử dụng tiền,.. thì lúc này khi đã áp dụng chế độ thỏa thuận, tài sản của cả hai trở nên rạch ròi, một trong hai bên có thể sử dụng tài sản riêng để phục vụ các nhu cầu cá nhân của mình.

– Hội nhập cùng thế giới: Xác định tài sản của vợ chồng dựa trên cơ sở hôn ước được xuất phát từ quan niệm của nhà làm luật ở các nước phương Tây. Theo họ, hôn nhân thực chất là một loại hợp đồng dân sự, hôn nhân chỉ khác với các loại hợp đồng dân sự thông thường khác ở tính chất “long trọng” trong thiết lập và trong việc chấm dứt. Đã là hợp đồng thì không thể không tôn trọng sự tự thỏa thuận của các bên. Bên cạnh đó, nhà làm luật ở các nước phương tây cũng đề cao quyền tự do cá nhân, quyền tự định đoạt đối với tài sản của vợ, chồng. Với quan niệm trên, tự do lập hôn ước đã trở thành một nguyên tắc và là giải pháp đầu tiên khi quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật về Hôn nhân và Gia đình ở hầu hết các nước phương Tây. Ngày nay thì không chỉ gói gọn ở phạm vi các nước phương Tây mới quy định về chế độ tài sản thỏa thuận. Việc chúng ta thừa nhận điều ấy thể hiện chúng ta không đi ngược lại với sự phát triển của nhân loại. Mặt khác, xu hướng kết hôn ở nước ngoài đang có xu hướng tăng cao nên rất cần thiết phải thừa nhận chế định này nhằm bảo vệ cho công dân nước mình và cả nước bạn.

Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan đến Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận mà LVN Group đã chia sẻ đến quý bạn đọc. Hy vọng rằng với những thông tin trên, quý bạn đọc có thể áp dụng được trong cuộc sống và công việc. Mọi thông tin câu hỏi, vui lòng liên hệ với chúng tôi; LVN Group với đội ngũ chuyên viên với nhiều năm kinh nghiệm trong nghề sẽ hỗ trợ quý bạn đọc một cách chuyên nghiệp và nhanh chóng nhất. Công ty Luật LVN Group – Đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com