1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo

Quyền con người là vấn đề luôn được các quốc gia trên thế giới quan tâm. Để đảm bảo quyền con người trong xã hội nói chung, các bản Hiến pháp của nước ta đều đã có nhiều điều khoản nhấn mạnh quyền công dân trong đó không thể không kể đến quyền bào chữa và những bảo đảm cần thiết để quyền đó được thực hiện. Việc Hiến pháp ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của chế định này. Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự nước ta cũng quy định và ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo nhằm không để bất kì người nào có thể bị hạn chế hay tước quyền cơ bản mà pháp luật đã dành cho họ.

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một trong những chế định quan trọng và phức tạp, vừa mang tính lí luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Từ trước đến nay, quyền bào chữa đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu song xung quanh khái niệm, nội dung, bản chất chủ thể… của quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, xác định khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trên cơ sở lí luận và thực tiễn phù hợp với quy định của pháp luật là cần thiết nhằm không ngừng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, củng cố cơ sở pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân .

Quyền con người luôn được đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Qua lịch sử đấu tranh, tồn tại và phát triển của loài người, quyền đó vẫn luôn luôn được ghi nhận và bảo đảm. Những nguyên tắc về quyền con người, trong đó có quyền bào chữa luôn được hoàn thiện dần theo thời gian và đã được khẳng định trong các văn bản pháp lí như Đạo luật của Anh năm 1689 về các quyền hoặc Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn nhân quyền của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, nhà nước luôn có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ bản đó được nhà nước đảm bảo thực hiện đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa. Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án có nhiệm vụ đảm bảo cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình”. Trong những trường hợp luật định, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan nói trên phải yêu cầu đoàn Luật sư của LVN Group cử ngươì bào chữa cho họ. Mặt khác, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội thì việc bào chữa là cần thiết, nó giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, việc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự không chỉ có buộc tội mà nó chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi tồn tại song song hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Đó cũng là một trong những cơ sở giúp toà án giải quyết vụ án được chính xác.

Đến nay, xung quanh khái niệm bào chữa có nhiều quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố tụng hướng tới việc b9i bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm trách nhiệm của bị can”.(1)

Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền bào chữa được hiểu rộng hơn, nó không chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm trách nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án.(2)

Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ.(3)

Quan điểm thứ tư cho rằng: “Quyền bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”.(4)

Quan điểm thứ năm cho rằng: “Không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”.(5)

Luật tố tụng hình sự của các nước khác nhau cũng có những quy định khác nhau về chủ thể của quyền bào chữa. Theo Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản thì quyền bào chữa thuộc về bị cáo và người bị tình nghi cụ thể là: “Bị cáo hoặc người bị tình nghi có thể lựa chọn Luật sư của LVN Group bào chữa bất kì lúc nào” (Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật bản).

Theo Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự của Bungari, quyền bào chữa là quyền của bị can, bị cáo trong đó quyền bào chữa của bị can được coi là bị hạn chế vì họ chỉ có quyền nhờ người bào chữa trong một số trường hợp cụ thể. Điều 38 Bộ luật tố tụng hình sự của chính quyền Sài Gòn trước đây quy định: “Trong giai đoạn điều tra sơ vấn nghi can bị bắt giữ hoặc bị điều tra phải biết ngay là phạm tội gì và có quyền nhờ Luật sư của LVN Group dự kiến”.

Như vậy, khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã được hiểu rất khác nhau và thực tế cũng được quy định khác nhau trong Bộ luật tố tụng hình sự của các nước.

2. Diện chủ thể người bào chữa

“Điều 72. Người bào chữa

1. Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tô’tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tô’ tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.

2. Người bào chữa có thể là:

à) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.

3. Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trỏ lên, trung thành với Tổ quốc, cỗ phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.

4. Những người sau đây không được bào chữa:

a) Người đã tiến hành tô’tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tô’tụng vụ án đó;

b) Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

c) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sỏ giáo dục bắt buộc.

5. Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ ấn nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau.

Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội”.

Trong quá trình dự thảo và thẩm định Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), có thể nói vấn đề xác định diện chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội là người bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự còn có nhiều ý kiến do cách tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, về mặt khái niệm, “người bào chữa” là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.

Trong quá trình thảo luận nhằm sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Liên đoàn Luật sư Việt Nam có đề nghị cần thu hẹp diện chủ thể bào chữa, tập trung vào phát triển đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp, xuất phát từ chủ trương và chiến lược phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05-7-2011. Chiến lược này xác định theo hưống chuyên nghiệp hóa, đáp ứng nhu cầu dịch vụ pháp lý ngày càng cao, nâng cao vị trí, vai trò của đội ngũ Luật sư trong việc tham gia hoạch định chính sách, xây dựng, giám sát thực thi pháp luật, thực hiện trách nhiệm xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, công dân, doanh nghiệp, bảo vệ công lý, xây dựng xã hội dân giàu, nưóc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chiến lược này cũng hướng đến việc phát triển hoạt động hành nghề Luật sư trỏ thành “nghề chuyên nghiệp” song song với việc tạo lập môi trường cho dịch vụ nghề nghiệp của Luật sư phát triển theo thông lệ quốc tế; đồng thời phát triển nghề Luật sư bền vững, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc…

2. Ngoài Luật sư của LVN Group, diện chủ thể người bào chữa còn các chủ thể khác

a) Về người bào chữa là “Bào chữa viên nhân dân”:

Theo quan điểm nói trên, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị nên xem xét lại việc quy định người bào chữa là “Bào chữa viên nhân dân”, vì đây là một diện chủ thể người bào chữa mang tính đặc thù riêng có ở Việt Nam, được hình thành trong bối cảnh cuộc kháng chiến chôhg Pháp (theo Sắc lệnh số 69-SL ngày 18-6-1949). Theo Nghị định số 01 ngày 12-01-1950 của Bộ Tư pháp thì điều kiện trỏ thành Bào chữa viên chỉ bao gồm: có quốc tịch Việt Nam, ít nhất 21 tuổi, hạnh kiểm tốt và chưa can án, do đương sự được quyền trình danh sách 3 người và được Chánh án lựa chọn (hằng năm, ủy ban Kháng chiến hành chính và Chánh án lập ra một danh sách Bào chữa viên). Sau khi đất nưốc thống nhất, ở một số địa phương như Hà Nội, Thành phô” Hồ Chí Minh có thành lập tổ chức Bào chữa viên nhân dân, nhưng đến khi Pháp lệnh tổ chức Luật sư của LVN Group năm 1987 có hiệu lực thì tổ chức này chấm dứt hoạt động.

Khoản 3 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử Bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình”. Tuy nhiên, khác vổi chế định Bào chữa viên theo sắc lệnh số’ 69-SL, thực tế tiêu chuẩn, cơ chế cử Bào chữa viên nhân dân, hồ sơ thủ tục liên quan chưa được quy định rõ. Thực tiễn tô’ tụng hình sự kể từ Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành đến nay, số lượng người bào chữa là Bào chữa viên nhân dân rất ít. Việc bỏ quy định diện chủ thể bào chữa là “Bào chữa viên nhân dân” là phù hợp trong điều kiện thực tế hiện nay và nằm trong chiến lược phát triển nghề Luật sư theo hướng chuyên nghiệp hóa.

Tại một cách tiếp cận khác, có quan điểm cho rằng cần tiếp tục giữ lại chế định “Bào chữa viên nhân dân” trong diện chủ thể người bào chữa, bởi không chỉ lý do đơn thuần về yếu tố chính trị từ tính đặc thù trong truyền thốhg lịch sử nghề Luật sư ở Việt Nam. Trên diễn đàn của nhiều hội thảo, tọa đàm, có nhiều ý kiến cho rằng hiện nay do sô’ lượng Luật sư trên cả nưóc còn thấp, chưa đủ đáp ứng yêu cầu giúp đỡ về mặt pháp lý, bào chữa trong các vụ án hình sự. Theo thống kê từ nhiều nguồn khác nhau, tỷ lệ Luật sư tham gia tô’ tụng hình sự trung bình chỉ đạt khoảng 25% tổng sô’ vụ án. Do vậy, cần thiết duy trì chê’ định “Bào chữa viên nhân dân”, nhưng Ban soạn thảo đã tiếp thu ý kiến của Liên đoàn Luật sư Việt Nam là cần quy định rõ tiêu chuẩn, điều kiện để xác định tư cách Bào chữa viên nhân dân. Dựa trên quan điểm đó, khoản 3 Điều 72 Bộ luật tô’ tụng hình sự năm 2015 quy định: “Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành vối Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình”.

Để chế định Bào chữa viên nhân dân thật sự phát huy vai trò và hiệu quả như mục tiêu và yêu cầu đặt ra, người viết cho rằng, ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên dựa trên tiêu chuẩn Bộ luật tô’ tụng hình sự quy định nêu trên để tổ chức tuyển chọn, xây dựng một danh sách Bào chữa viên nhân dân, có quy chê’ về tổ chức và hoạt động, làm rõ điều kiện và tiêu chuẩn “có kiến thức pháp lý” nhằm sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của các thành viên thuộc tổ chức của mình. Trong trường hợp này, Liên đoàn Luật sư Việt Nam với tư cách là thành viên của ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần chủ động phôi hợp với Ban Dân chủ và Pháp luật của Mặt trận, cùng đội ngũ chuyên gia của Hội Luật gia Việt Nam, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp lý và kỹ năng bào chữa và tham gia tô’ tụng hình sự cho các Bào chữa viên nhân dân nói trên. Để tạo thuận lợi khi tham gia tố tụng, Bào chữa viên nhân dân cần có Thẻ hoặc giấy tờ chứng nhận tư cách Bào chữa viên nhân dân để làm thủ tục đăng ký bào chữa theo quy định mới của Bộ luật tô’ tụng hình sự năm 2015. về phần mình, các cơ quan tiến hành tô tụng cũng cần nhận thức về quyền được bảo vệ hỗ trợ về pháp lý của những người bị tình nghi phạm tội là thành viên của các tổ chức thuộc ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các địa phương, để kịp thời có cơ chế phổi hợp và bảo đảm quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc Bào chữa viên nhân dân bào chữa cho họ.

b) Về người bào chữa là “người đại diện của người bị buộc tội”:

Diện chủ thể người bào chũa này về nội hàm khái niệm có khác với “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” quy định trong điểm b khoản 1 Điều 56 Bộ luật tô’ tụng hình sự năm 2003. Liên quan đến diện chủ thể này, trong pháp luật thực định ở nước ta có những cách hiểu khác nhau.

Nghị quyết số’ 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có quy định một trong những chủ thể có quyền kháng cáo là “người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất và người đại diện hợp pháp của người bị hại bao gồm cha, mẹ, vợ và con thành niên”. Trong khi đó, khoản 1 và 2 Điều 141 Bộ luật dân sự năm 2005[1] quy định về người đại diện theo pháp luật bao gồm: (1) Cha, mẹ đối vói con chưa thành niên; và (2) Người giám hộ đối với người được giám hộ. Trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can có thể được xác định bao gồm: Cha, mẹ đôi với con chưa thành niên; người giám hộ đối với người được giấm hộ và cha, mẹ, con thành niên đối vói người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Mặt khác, như trên đã nói, do pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự đối vổi một số’ tội danh, được quyền tự bảo vệ và nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng, nên diện chủ thể bào chữa cho pháp nhân ngoài Luật sư còn có thể là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Do đó, khi thiết kế tên gọi của diện chủ thể này, Ban soạn thảo lựa chọn phương án một trong những người bào chữa là “người đại diện của người bị buộc tội” là bảo đảm mang tính đại diện, bao quát chung cho các trường hợp cụ thể nêu trên.

Như hầu hết các nước trên thế giới, chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội chĩ có thể là những Luật sư chuyên nghiệp, nên Liên đoàn Luật sư Việt Nam đặt vấn đề không nên quy định người bào chữa là người đại diện của người bị buộc tội. Trong thực tiễn tố tụng hình sự ỗ nước ta hàng chục năm qua, gần như rất hiếm việc các cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho người đại diện của người bị buộc tội tham gia tố tụng bào chữa cho thân nhân của họ. Vối đề nghị này, Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhận thức diện chủ thể có đầy đủ khả năng thực hiện chức năng bào chữa chỉ có thể là Luật sư, vì chỉ có họ là những người đã qua đào tạo pháp luật, có đủ trình độ chuyên môn và kỹ năng nhằm giúp cho người có nhu cầu nhờ bào chữa nhận được sự hỗ trợ về mặt pháp lý một cách chuyên nghiệp; có thể tự mình thu thập, đánh giá chứng cứ một cách hợp pháp và hữu hiệu, hạn chế hành vi vi phạm tố tụng trong điều bào chữa trong trường hợp bản thân người bị buộc tội hoặc thân nhân của họ không đủ điều kiện trang trải chi phí tố” tụng và dịch vụ pháp lý. Các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý là Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nưốc và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý gồm tổ chức hành nghề Luật sư; và tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp,

Như vậy, người thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý có thể tự mình hoặc thông qua người thân thích, người đại diện yêu cầu trợ giúp pháp lý đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nưốc ở tỉnh, thành phô’ trực thuộc trung ương hoặc tổ chức hành nghề Luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý trong phạm vi đăng ký. Khi yêu cầu, họ phải cung cấp giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý; cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu đó; tôn trọng tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện trợ giúp pháp lý; không yêu cầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý khác trợ giúp pháp lý cho mình về một vụ việc đang được tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trợ giúp; chấp hành pháp luật về trợ giúp pháp lý và nội quy nơi thực hiện trợ giúp pháp lý.

Theo quy định tại Điều 4 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006, nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý là không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được trợ giúp pháp lý; phải trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, sử dụng các biện pháp phù hợp vối quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích

hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý, tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trợ giúp pháp lý. Pháp luật quy định có thể xây dựng Quỹ trợ giúp pháp lý để hỗ trợ nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; hỗ trỢ trang thiết bị, phương tiện làm việc cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương có khó khăn về kinh tế. Nguồn tài chính của Quỹ trợ giúp pháp lý gồm đóng góp tự nguyện, tài trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được miễn thuế, cũng như việc quản lý và sử dụng quỹ trợ giúp pháp lý phải đúng mục đích và theo quy định của pháp luật.

Phù hợp với mục đích và tính chất hoạt động trợ giúp pháp lý, pháp luật nghiêm cấm tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện các hành vi sau đây: (a) Xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý; phân biệt đối xử người được trợ giúp pháp lý; (b) Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ người được trợ giúp pháp lý; sách nhiễu người được trợ giúp pháp lý; (c) Tiết lộ thông tin, bí mật về vụ việc trợ giúp pháp lý, về người được trợ giúp pháp lý, trừ trường hợp người được trợ giúp pháp lý đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; (d) Từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 45 Luật trợ giúp pháp lý và theo quy định của pháp luật về tố tụng; (đ) Lợi dụng hoạt động trợ giúp pháp lý để trục lợi; (e) Lợi dụng hoạt động trợ giúp pháp lý gây mất trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; (g) Xúi giục người được trợ giúp pháp lý khai, cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, khiếu nại, tô’ cáo, khởi kiện trái pháp luật (khoản 1 Điều 9 Luật trự giúp pháp lý năm 2006).

Hiện nay, diện người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm TrỢ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý (gồm cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nưốc, Luật sư và Tư vấn viên pháp luật làm việc trong tổ chức tư vấn pháp luật – gọi là Tư vấn viên pháp luật). Khi tham gia tô’ tụng hình sự với tư cách là Trợ giúp viên pháp lý, đương nhiên, tổ chức hành nghề Luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý phải đăng ký bằng văn bản về phạm vi, hình thức, lĩnh vực trợ giúp pháp lý với sở Tư pháp nơi đã cấp Giấy đăng ký hoạt động. Trợ giúp viên pháp lý chỉ thực hiện trợ giúp pháp lý theo Giấy đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý, có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý; phải bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra trong khi thực hiện trợ giúp pháp lý; thực hiện chê’ độ báo cáo, thông kê về trợ giúp pháp lý; giải quyết tranh chấp trong trợ giúp pháp lý cũng như có quyền kiến nghị về nhũng vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Bên cạnh việc tư vấn pháp luật và tham gia tô’ tụng của Luật sư với tư cách cộng tác viên của các Trung tâm trợ giúp pháp lý, các Trợ giúp viên pháp lý có thể tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự. Các thủ tục đăng ký và tham gia tổ’ tụng hình sự thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

a) Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiêh nghị khởi tô’:

“Điều 83. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố

1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tô’là người được người bị tô’ giác, người bị kiến nghị khởi tô’nhỏ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

2. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tô’ giác, người bị kiến nghị khỏi tô’có thể là:

a) Luật sư;

b) Bào chữa viên nhân dân;

c) Người đại diện;

d) Trợ giúp viên pháp lý.

3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tô’giác, người bị kiến nghị khởi tồ’có quyền:

a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tô’tụng kiểm tra, đánh giá;

c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tô’giác, người bị kiến nghị khỏi tô’và nếu được Điểu tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tô’giác, người bị kiến nghị khỏi tố. Sau mỗi lẩn lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngưồi bị tô’giác, người bị kiến nghị khởi tô’có quyền hỏi người bị tô’ giác, người bị kiến nghị khỗi tô’;

d) Có mặt khi đô’i chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tô’giác, người bị kiêh nghị khối tô’;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tô’ tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tô’tụng.

4. Người bảo vệ quyển và lợi ích hợp pháp của người bị tô’ giác, người bị kiến nghị khỏi tô’có nghĩa vụ:

a) Sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án;

b) Giúp người bị tô’ giác, người bị kiến nghị khởi tô’ về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.

Theo định nghĩa nêu trong Điều 3 Thông tư liên tịch SỐ 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02-8-2013 của liên ngành Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tô giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. Kiến nghị khởi tô’lằ việc các cơ quan nhà nưổc khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có ván bản kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét khởi tô’ vụ án hình sự.

Để khắc phục tình trạng người bị tô’ giác, bị tin báo, bị kiến nghị khỏi tô’ khi được Cơ quan điều tra triệu tập lên làm việc, lấy lời khai, giải trình và cung cấp hồ sơ nhưng không nhận được sự hỗ trợ, tư vấn về mặt pháp lý của Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã đề nghị và được Ban soạn thảo chấp nhận đưa vào Bộ luật tô’ tụng hình sự diện chủ thể mới là “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tô’ giác, bị kiến nghị khởi tố”. Có thể nói, đây là quy định rất mới, thể hiện bước chuyển nhận thức về sự cần thiết bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tình nghi hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật phát sinh từ tô’ cáo của công dân, phản ánh qua báo chí hay từ kiến nghị sau các cuộc thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng đốỉ với doanh nghiệp. Quy định này tháo bỏ rào cản trong quan niệm cho rằng, chỉ khi vụ án bị khởi tố, người tình nghi bị bắt, bị tạm giữ thì mối phát sinh nhu cầu bào chữa, bảo vệ quyền lợi. Nó cũng mở rộng giai đoạn tham gia của Luật sư và những người bào chữa khác trưốc khi vụ án được khỏi tô’, tạo điều kiện cho họ được thu thập, đánh giá và trợ giúp cho người bị tình nghi phạm tội trình bày các chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Chính sự tham gia từ rất sớm trước khi tô’ tụng hình sự được khởi động đã cho phép nhìn nhận một cách rõ ràng hơn nguyên tắc tranh tụng không chỉ được bảo đảm tại phiên tòa mà nó được thể hiện ngay từ giai đoạn “tiền tố tụng” và người bào chữa, bảo vệ quyền lợi có cơ hội phản biện, tranh tụng với bên buộc tội.

Cũng như diện người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tô’ giác, bị kiến nghị khởi tô’ bao gồm: (a) Luật sư; (b) Bào chữa viên nhân dân; (c) Người đại diện; (d) Trợ giúp viên pháp lý. Trong đó, người đại diện đây được hiểu là người đại diện hợp pháp của người bị tình nghi hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nêu trên khi được khách hàng yêu cầu, chỉ cần xuất trình Thẻ Luật sư và văn bản yêu cầu của khách hàng vối Cơ quan điều tra, không phải làm thủ tục đăng ký như được quy định tại Điều 78 Bộ luật tô’ tụng hình sự năm 2015.

Đặc biệt, lần đầu tiên các quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngưòi bị tô’ giác, bị kiến nghị khỏi tô’ được quy định rất rõ tại khoản 3 Điều 83 Bộ luật tô’ tụng hình sự năm 2015: (a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; (b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tô’ tụng kiểm tra, đánh giá; (c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tô’ giác, người bị kiến nghị khỏi tô’ và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tô’ giác, người bị kiến nghị khỏi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của ngưòi có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tô’ giác, người bị kiến nghị khởi tô’ có quyền hỏi người bị tô’ giác, người bị kiến nghị khởi tố; (d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tô” giác, người bị kiến nghị khởi tô”; (đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tô” tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tô” tụng.

Trong các quyền nói trên, quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tô” tụng kiểm tra, đánh giá có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định đến việc hỗ trợ, giúp đỡ về mặt pháp lý một cách có hiệu quả cho người bị tình nghi phạm tội, tạo ra tâm lý yên tâm và vững tin trong việc tiếp xúc, trình bày vối Cơ quan điều tra về những cáo buộc đôì với bản thân mình. Cụ thể hơn, người bảo vệ được quyền có mặt khi lấy lời khai người bị tô” giác, người bị kiến nghị khỏi tô” và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tô” giác, người bị kiến nghị khởi tô”. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tô” giác, người bị kiến nghị khởi tô” có quyền hỏi người bị tô” giác, người bị kiến nghị khỏi tô”. Đương nhiên, nội dung quyền này hàm chứa việc đã được quyền hỏi thì nội dung câu hỏi và nội dung trả lời phải được thể hiện trong biên bản ghi lòi khai. Đây cũng là bước tiến mới của Bộ luật tô” tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tô” tụng hình sự năm 2003 với quy định trong giai đoạn điều tra khi vụ án được khởi tô”, nhiều Luật sư không được quyền hỏi nếu không được Điểu tra viên đồng ý (điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật tô” tụng hình sự năm 2003).

Ngoài ra, một sô” hoạt động “tiền tô” tụng” khác như đô”i chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tô” giác, người bị kiến nghị khởi tố hay khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tôi’ tụng, người bảo vệ quyền lợi có quyền tham gia và có ý kiến đánh giá về các căn cứ pháp lý quy buộc trách nhiệm đốĩ vối khách hàng của mình. Trong quá trình tham gia, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng nêu trên có nghĩa vụ, đồng thời là trách nhiệm sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án; giúp người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tô về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đây là sự nối rộng biên độ có ý nghĩa rất quan trọng, vì các biện pháp do pháp luật quy định cho Luật sư và các chủ thể khác có thể tham gia góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án rất đa dạng, nhiều cấp độ và tầng nấc khác nhau, với nhiều cách tiếp cận và hình thức thể hiện khác nhau, không bị bó hẹp vào trong một vài hoạt động cụ thể nào. Có như vậy, Luật sư mới thật sự trợ giúp có hiệu quả cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.

b) Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự:

“Điều 84: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự

ỉ. Người bảo vệ quyển và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người được bị hại, đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

2. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể là:

a) Luật sư;

b) Người đại diện;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý.

3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có quyền:

a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cẩu người có thẩm quyền . tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

c) Yêu cầu giám định, định giá tài sản;

d) Có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tô’tụng

lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ; đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều tra; ■

đ) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa;

e) Khiếu nại quyết định, hành vi tô’ tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

g) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiêh hành tô’tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

h) Kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thẩn hoặc thể chất.

4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có nghĩa vụ:

a) Sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án;

b) Giúp bị hại, đương sự về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.

Vấn đề quy định diện chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự đã được làm rõ hơn rất nhiều so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Thật ra, một vụ án hình sự phát sinh không chỉ chứng minh hành vi phạm tội của người bị tình nghi, mà còn phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, các đương sự trong vụ án hình sự. Đó cũng chính là lý do Ban soạn thảo, các ủy ban chuyên môn của Quốc hội thốhg nhất vối đề nghị của Liên đoàn Luật sư Việt Nam đặt tên Chương V Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là “Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự’.

Trước hết, nói về các chủ thể được hưởng quyền và lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự. Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “bị hại” là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại vê’ tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần biết rõ các quyền và nghĩa vụ của người bị hại đã được mở rộng hơn (14 quyền) so vối Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 51) (6 quyền), trong đó có các quyền hoàn toàn mới như: Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; đề nghị thay đổi người dịch thuật; đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường; xem biên bản phiên tòa; tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. Đặc biệt là có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cũng cần lưu ý là, trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Đây là một thủ tục ít được Tòa án quan tâm và trong thực tiễn cũng ít bị hại, đại diện của họ hay người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ biết đến và thực hiện. Thể thức, phạm vi và nội dung trình bày lời buộc tội này như thế nào cũng cần được làm rõ. Theo quy định mối tại các khoản 4 và 5 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị hại có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyển tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải. Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều 62. Điều luật cũng quy định đối vói trường hợp cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điểu 62.

Các điều 63, 64 và 65 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về “nguyên đơn dân sự”, “bị đơn dân sự” và “người có quyền lợi, nghĩa Vụ liên quan”. Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Các chủ thể tham gia tố tụng này được gọi chung là đương sự trong vụ án hình sự.

So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chỉ có 7 quyền, trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có tới 12 quyền, người có quyền lợi, nghĩa vụ Hên quan đến vụ án có 9 quyền, trong đó có các quyền lần đầu tiên được quy định như: Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều trên; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; đề nghị thay đổi người dịch thuật; tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; xem biên bản phiên tòa; đặc biệt là quyền tự bảo vệ, nhò người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, trước đây Điều 59 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chỉ quy định bao gồm Luật sư, Bào chữa viên nhân dân hoặc “người khác” được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho họ. Tuy nhiên, trong quá trình tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền lợi của đương sự gặp nhiều lúng túng, vưống mắc cả về thời điểm, cách thức cũng như phạm vi thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong môì quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong nhiều trường hợp, ngoài việc được tiếp nhận thông tin về việc khởi tố vụ án, nhưng khi kết thúc điều tra hoặc quyết định truy tô”, hầu như các đương sự cùng người bảo vệ quyền lợi cho họ không được tống đạt bản kết luận điều tra, cáo trạng. Chỉ đến khi hồ sơ vụ án được chuyển đến Tòa án thì lúc đó, họ mối được làm thủ tục chứng nhận tư cách người bảo vệ quyền lợi cho đương sự và thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong giai đoạn xét xử.

Điều 84 Bộ luật tô tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng diện người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự ngoài Luật sư, Bào chữa viên nhân dân, còn có người đại diện và Trợ giúp viên pháp lý (người đại diện ở đây được hiểu là người đại diện hợp pháp của bị hại, đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân). So vổi 4 quyền được quy định trong khoản 3 Điều 59 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Điều 84 Bộ luật tô’ tụng hình sự năm 2015 quy định tói 8 quyền, trong đó có các quyền mởi như: Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tô’ tụng kiểm tra, đánh giá; yêu cầu giám định, định giá tài sản; có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tô’ tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ; đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều tra; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự nêu trên khi được khách hàng yêu cầu, chỉ cần xuất trình Thẻ Luật sư, Thẻ Trợ giúp viên pháp lý, các giấy tờ nhân thân hoặc giấy tờ chứng minh tư cách là đại diện theo ủy quyền hoặc đại diện theo pháp luật của pháp nhân và văn bản yêu cầu của khách hàng với cơ quan tiến hành tố” tụng, không phải làm thủ tục đăng ký như được quy định tại Điểu 78 Bộ luật tô’ tụng hình sự năm 2015.

Tuy nhiên, so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 lại bỏ quy định: đối với đương sự là người chưa thành niên, ngưồi có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ. Trong quá trình hưống dẫn thi hành Bộ luật tô’ tụng hình sự năm 2015, thiết nghĩ, các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần bổ sung thêm quy định này nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

5. Điểm mới về chế định bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự

Quyền bào chữa là quyền hiến định, là một trong những quyền tự do dân chủ trọng yếu của công dân, đồng thời cũng là một chế định trọng yếu trong tố tụng, giúp công tác xét xử tiến hành toàn diện và khách quan, chính xác, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ pháp luật. Chính vì vậy Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng diện người được đảm bảo quyền bào chữa là “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt” quy định tại điểm g – khoản 1 – Điều 58.

Trước đây, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định về người bào chữa nhưng chưa đưa ra khái niệm cụ thể về người bào chữa thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã nêu lên khái niệm cụ thể tại khoản 1 – Điều 72 như sau: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa

Đồng thời tại khoản 2 – Điều 72 cũng bổ sung diện người được tham gia bào chữa là “Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý”.

Khoản 3, 4 Điều – 72 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn bổ sung quy định về Bào chữa viên nhân dân và quy định những người không được tham gia bào chữa khi tham gia vụ án đó với tư cách là “Người định giá tài sản”, “Người dịch thuật”; “Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiên bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc”.

Điều 78 quy định cụ thể về thủ tục cấp đăng ký bào chữa. Đặc biệt quy định mới về việc thông báo bào chữa, từ chối bào chữa hoặc hủy bỏ việc đăng ký bào chữa cho cơ sở giam, giữ người bị bắt, người bị khởi tố, truy tố.

Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực hiện tốt các quyền theo quy định của pháp luật tại các Điều 73, 79, 80, 81 và Điều 82.

Điều 74 quy định về Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng cũng giống như những quy định trước đây là từ khi khởi tố bị can; Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia từ khi kết thúc điều tra.

Đặc biệt, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định 01 điểm mới so với Bộ Luật tố tụng hình sự 2003 là quy định về “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố”tại Điều 83. Điều luật nhằm tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn tiền tố tụng, theo đó, ngay từ giai đoạn cơ quan công an giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, người bị tố giác đã có quyền có người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị tố giác có thể là Luật sư của LVN Group, bào chữa viên nhân dân, người đại diện, trợ giúp viên pháp lý. Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị tố giác có quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá, trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Đặc biệt, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có đầy đủ các quyền theo quy định tại khoản 3 – Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015. Song song đó, những người này cũng phải có những nghĩa vụ được quy định tại khoản 4 – Điều 83.

Tuy nhiên, Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 lại chưa quy định cụ thể là Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố được tham gia từ thời điểm nào, từ khi cơ quan điều tra có giấy mời người bị tố giác tới làm việc hay từ khi Cơ quan điều tra có Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo tội phạm. Những người này có phải đăng ký với cơ quan điều tra hay không, nếu có thì thủ tục, thời hạn giải quyết và biểu mẫu như thế nào thì chưa có quy định. Với những quy định này thiết nghĩ các ngành chức năng cần có những hướng dẫn cụ thể hơn để quá trình áp dụng được thống nhất.