1. Khái niệm vụ án dân sự

– Vụ án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy định thì cá nhân, cơ quan, tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

– Trường hợp là vụ án dân sự khi:

+ Có tranh chấp giữa các bên;

+ Có hành vi khởi kiện ra Tòa án;

+ Tòa án phải thụ lý tranh chấp đó.

+ Các bên không có tranh chấp với nhau;

+ Có đơn yêu cầu;

+ Tòa án phải thụ lý đơn yêu cầu đó.

2. Các bước xét xử vụ án dân sự

Bước 1: Thụ lý vụ án

Theo quy định tại Điều 191 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trường hợp Tòa án nhận đơn khởi kiện được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.

– Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay Giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện.

Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện.

Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

– Chánh án tòa phân công Thẩm phán xem xét đơn (Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đơn)

– Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Thẩm phán đước phân công xem xét đơn khởi kiện, Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:

+ Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;

+ Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này;

+ Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;

+ Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Bước 2: Chuẩn bị xét xử

– Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng.

– Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 01 tháng.

– Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tùy từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:

+ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;

+ Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;

+ Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;

+ Đưa vụ án ra xét xử.

Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng (Điều 203)

Bước 3: Hòa giải vụ án

– Theo quy định tại Khoản 1 Điều 205 BLTTDS 2015 thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 BLTTDS.

+ Ra quyết định hòa giải thành khi không có đương sự thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận;

+ Trong trường hợp hòa giải không thành, Thẩm phán chủ tọa phiên hòa giải lập biên bản hòa giải không thành và thực hiện các thủ tục tiếp theo để đưa vụ án ra xét xử.

Bước 4: Mở phiên tòa xét xử

Theo quy định tại Điều 222 BLTTDS 2015 phiên tòa phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa trong trường hợp phải hoãn phiên tòa.

Thành phần tham gia phiên tòa được quy định từ Điều 227 đến Điều 232 tại BLTTHS, gồm: Đương sự; Người đại diện của đương sự; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Người làm chứng; Người giám định; Người phiên dịch và Kiểm sát viên.

3. Khái niệm về xét xử sơ thẩm

Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu tiên của một vụ án.

Bản án sơ thẩm chỉ có hiệu lực sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị không bị kháng cáo kháng nghị. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Sau khi hòa giải không thành hoặc đối với những vụ án mà pháp luật quy định không được phép hòa giải thì tòa án phải tiến hành phiên xét xử vụ án dân sự. phiên xét xử này được gọi là phiên tòa dân sự. Tất cả các vụ án dân sự nếu đã phải đưa ra xét xử thì đều phải trải qua việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm tập trung các hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.

4. Thủ tục bắt đầu phiên tòa

– Kiểm tra căn cước những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa và xử lý yêu cầu xin thay đổi người tiến hành tố tụng:

Để phiên tòa được tiến hành một cách chặt chẽ, đúng tố tụng thì thư ký phải kiểm tra và báo cáo chính xác cho Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt và lý do vắng mặt của những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa.

Khi Hội đồng xét xử ra làm việc thì chủ tọa phải kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo và họ đã ngồi đúng vào vị trí đã quy định, thuận lợi cho việc đứng dậy trình bày khi Tòa yêu cầu hay chưa? Đồng thòi, phải kiểm tra căn cước của các đương sự.

Trong thực tế, đã có chủ tọa phiên tòa do chủ quan chỉ hỏi lướt qua mà không kiểm tra kỹ căn cước dẫn đến nhầm đương sự (vì cùng thôn, cùng họ, cùng tên chỉ khác tên đệm và ở vụ án khác). Vì vậy, khi thấy có sự khác biệt dù nhỏ cũng phải hỏi kỹ hơn, thì mới có thể tránh nhầm lẫn.

– Chủ tọa phiên tòa phải phổ biến quyền hạn, nghĩa vụ của cấc đương sự và những người tham gia tố tụng khác, giới thiệu những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem các đương sự có đề nghị thay đổi ai không, lý do thay đổi.

Trong trưòng hợp có người xin thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét và quyết định.

– Trước khi Hội đồng xét xử quyết định thì cần nghe ý kiến của người bị thay đổi, Hội đồng thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo đa số. Khi Hội đồng thảo luận thấy yêu cầu xin thay đổi là chính đáng, ví dụ thuộc trường hợp quy định ở các điều 52, 53, 60, 54… Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì Hội đồng xét xử phải chấp nhận, nếu việc xin thay đổi là không chính đáng thì Hội đồng xét xử không chấp nhận và nêu rõ lý do vì sao không chấp nhận.

– Bảo đảm tính khách quan trong lời khai của người làm chứng:

Trong trưòng hợp chủ tọa phiên tòa nhận thấy, nếu để cho những người làm chứng hoặc giữa đương sự và người làm chứng tiếp xúc vối nhau hoặc nghe lời khai của nhau sẽ ảnh hưởng đến tính khách quan trong lời khai của họ thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết định cách ly đương sự với người làm chứng, cách ly giữa các nhân chứng trước khi hỏi người làm chứng đó.

5. Thủ tục hỏi tại phiên tòa

5.1. Xử lý vấn đề thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện:

Khi thây phiên tòa đủ điều kiện để tiếp tục thì chủ tọa hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện không? Hỏi bị đơn có bổ sung, thay đổi, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu phản tố hay không? Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu độc lập hay không?

Nếu đương sự có thay đổi, bổ sung yêu cầu thì Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khỏi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.

Ví dụ: đương sự có đơn khỏi kiện xin ly hôn, và yêu cầu giải quyết quan hệ con cái; về tài sản các đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nhưng đến phiên tòa các đương sự yêu cầu giải quyết quan hệ tài sản với lý do không tự thỏa thuận được. Yêu cầu chia tài sản đã vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, Hội đồng xét xử sẽ không xem xét.

Đối với trường hợp trong đơn khởi kiện, nguyên đơn xin nuôi con và yêu cầu bên không nuôi con phải đóng góp phí tổn nuôi con; trong quá trình tố tụng nguyên đơn có lời khai chỉ yêu cầu bị đơn đóng góp phí tổn nuôi con 100.000 đồng, nhưng đến phiên tòa nguyên đơn yệu cầu bị đơn đóng góp phí tổn nuôi con 200.000 đồng. Trong trưòng hợp này, không coi là vượt quá yêu cầu khỏi kiện. Ngược lại, A có đơn khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu căn nhà X phô N với B, yêu cầu B trả nhà cho A, đến phiên tòa A đưa thêm yêu cầu, đề nghị Tòa án buộc B trả cả càn nhà Q phô K. Vì A cho rằng, căn nhà Q cũng thuộc sở hữu của mình, nhưng bị B chiếm. Trong trường hợp này, yêu cầu của A đề nghị Tòa án giải quyết căn nhà Q phô’ K là vượt quá yêu cầu khỏi kiện, Hội đồng xét xử sẽ không xem xét giải quyết trong cùng một vụ án.

Việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp Hội đồng xét xử chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự thì phải ghi vào bản án.

Nếu có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đôì vói phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu mà đương sự đã rút.

Theo quy định tại Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố thì Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điểu 244 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, ra quyết định đình chỉ xét xử đối vối toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn đã rút.

Hội đồng xét xử công bồ thay đổi địa vị tố tụng của các

đương sự. Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố trỏ thành nguyên đơn, nguyên đơn đã rút toàn bộ yêu cầu trở thành bị đơn.

Nêu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ xét xử đối với toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn đã rút theo quy định tại khoản 2 Điểu 244 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành.

Công bố công khai tại phiên tòa việc thay đổi địa vị tố tụng trong đó người có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trỏ thành nguyên đơn và tùy theo mốì quan hệ giữa các đương sự liên quan đến yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xác định ai là bị đơn.

Ví dụ: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đề nghị Tòa buộc cả nguyên đơn và bị đơn trả nợ cho mình thì cả nguyên đơn và bị đơn sẽ trở thành bị đơn, còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là nguyên đơn. Ngược lại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập chỉ yêu cầu nguyên đơn trả nợ, không yêu cầu gì đối với bị đơn trong khi bị đơn là người bảo lãnh cho khoản nợ này thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là nguyên đơn, còn nguyên đơn trỏ thành bị đơn, bị đơn sẽ là người có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Việc thay đổi địa vị tố tụng phải được ghi vào biên bản phiên tòa và bản án.

5.2. Xử lý việc thỏa thuận của đương sự trước khi chuyền sang phần hỏi các đương sự:

Trước khi chuyển sang phần hỏi, Hội đồng xét xử cần giải thích cho các đương sự biết quy định của Điểu 246 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành về việc đương sự có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, hậu quả của việc Tòa án ra quyết định công nhận thỏa thuận đó sẽ làm cho các đương sự không được quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không được kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự vể việc giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật.

Sau khi giải thích, chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không? Nếu có thì hỏi họ có hoàn toàn tự nguyện hay không, có bị ép buộc không? Và nội dung cụ thể của thỏa thuận đó. Hội đồng xét xử xem thỏa thuận đó có trái pháp luật, trái đạo đức xã hội không? Khi thấy thỏa thuận có điểm nào đó chưa rõ ràng, chưa cụ thể có khả năng sẽ gây khó khăn khi thi hành án thì Hội đồng xét xử phải giải thích cho đương sự để họ thỏa thuận lại cho rõ. Nếu sự thỏa thuận đó là hoàn toàn tự nguyên, không xâm phạm đến quyền, lợi ích của người khác, không trái pháp luật, đạo đức xã hội và. đã rõ ràng thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, thì Hội đồng xét xử thảo luận và ra quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự vể việc giải quyết vụ án tại phòng xử án (chứ không phải tại phòng nghị án như các trường hợp quy định tại khoản 1, 2 Điều 235 nêu trên). Do đó, mọi sự thỏa thuận của các đương sự phải được ghi đầy đủ vào biên bản phiên tòa.

5.3. Trình tự tiến hành việc xét xử:

Theo quy định tại Điểu 248 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, nếu các đương sự không tự thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án, thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử vụ án bằng việc yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp nguyên đơn không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì nguyên đơn trực tiếp trình bày ngay từ đầu.

Trường hợp cơ quan, tố chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày yêu cầu và đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cũng tương tự như vậy, tiếp đến người bảo vệ quyền vă lợi ích hợp pháp của bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày.

Cần lưu ý là, tại phiên tòa, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vẫn có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình, Hội đồng xét xử phải xem xét đánh giá các chứng cứ mới và các chứng cứ có trong hồ sơ để xem xét toàn diện.

về thứ tự hỏi tại phiên tòa: Sau khi nghe lời trình bày của đương sự, việc hỏi từng người vể từng vấn đề được thực hiện theo thứ tự như sau: Chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đến Hội thẩm nhân dân, tiếp đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, rồi đến đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Trường hợp có Viện kiểm sát tham gia phiên tòa thì Viện kiểm sát hỏi sau đương sự.

Việc hỏi nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, hỏi nhân chứng, hỏi người giám định đã được quy định khá rõ và cụ thể các điều 250, 251, 252, 253, 257 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Thẩm phán cần nắm vững các quy định này. Thông thường, việc hỏi sẽ thực hiện theo thứ tự nêu trên, tuy nhiên, khi vận dụng trong thực tiễn không nhất thiết lúc nào cũng phải hỏi theo thứ tự như quy định của các điều 250, 251, 252, 253, 257 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành mà tùy từng vụ, có thể hỏi đương sự nào trước, đương sự nào sau.

Một vụ án có nhiều vấn đề phải xem xét thì hỏi từng vấn đề, làm rõ từng vấn để một rồi mói sang vấn đề khác, cần tập trung hỏi những vấn đề chưa rõ, còn mâu thuẫn trong chính lời khai của đương sự, nhân chứng, mâu thuẫn giữa lời khai của các đương sự, mâu thuẫn giữa lời khai của đương sự với người bảo vệ quyền lợi cho họ, lời khai của nhân chứng hay các tài liệu khác có trong hồ sơ…

Trong vụ án có nhiều nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhiều nhân chứng thì hỏi riêng từng người một.

Đối với người giám định được yêu cầu đến phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa yêu cầu người giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề cần giám định và họ có quyền giải thích bổ sung về kết luận giám định, căn cứ để đưa ra kết luận giám định.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 257 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ, còn mâu thuẫn trong kết luận giám định hoặc có mâu thuẫn với các tình tiết khác của vụ án.

Việc công hố tài liệu của vụ án xuất phát từ các căn cứ sau:

– Những người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa (ví dụ đương sự, nhân chứng, người giám định được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt hoặc Tòa án thấy không cần triệu tập…).

– Lời khai của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa mâu thuẫn với những lời khai trưóc đó…

– Có yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng hoặc chính Hội đồng xét xử thấy cần thiết.

Xem xét vật chứng hoặc các thông tin được ghi âm, ghi hình:

Theo yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng hoặc khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử cho mở băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình tại phiên tòa.

Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng cũng được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Nếu thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với đương sự đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được.

Cần chú ý: Trong trường hợp đặc biệt (cần giữ bí mật nhà nước, giữ thuần phong mỹ tục, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu của đương sự) thì Hội đồng xét xử không công bố các tài liệu có trong hồ sơ.

Khi có người tham gia tố tụng không đồng ý với kết luận giám định được công bô’ tại phiên tòa và có yêu cầu bổ sung hoặc giám định lại, xét thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại. Trong trường hợp này thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa.

Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền lợi cho họ và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không. Trong trường hợp có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ tọa quyết định tiếp tục xét hỏi.

Một vấn đề được đặt ra đang có ý kiến khác nhau, đó là trong trường hợp vụ án có Kiểm sát viên tham gia tố tụng tại phiên tòa thì Kiểm sát viên được hỏi những vấn để gì? Có được hỏi các vấn đề liên quan đến nội dung vụ án hay chỉ hỏi các vấn đề liên quan đến tố tụng?

Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về phạm vi phát biểu của Kiểm sát viên trong giai đoạn tranh luận, nhưng phần hỏi không bị sửa đổi và điều quan trọng trong chức năng kiểm sát việc xét xử, nhiệm vụ kiến nghị, kháng nghị… bản án, quyết định sơ thẩm của Viện kiểm sát vẫn không có gì thay đổi. Khi thực hiện quyền kháng nghị, Viện kiểm sát không chỉ kháng nghị cấc bản án, quyết định có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng mà còn kháng nghị cả các trường hợp có sai lầm nghiêm trọng về đánh giá chứng cứ, đường lối giải quyết vụ án, về áp dụng pháp luật. Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ đó Kiểm sát viên có quyền hỏi cả vấn đề liên quan đến nội dung vụ án nhằm làm rõ và xác định đường lối giải quyết vụ án như thế nào là đúng pháp luật. Dù rằng những vấn đề thuộc về đường lối giải quyết vụ án dân sự, Viện kiểm sát không phát biểu, Viện kiểm sát không tham gia tranh luận, nhưng việc hỏi của Viện kiểm sát nhằm làm rõ các vấn đề là cơ sở cho các hoạt động tiếp theo thuộc chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát. Ví vậy, nếu những vấn đề mà Kiểm sát viên hỏi là cần thiết, trúng vấn đê’ cần làm rõ thì không chỉ giúp Hội đồng xét xử có cái nhìn toàn diện, đầy đủ, đánh giá chính xác các tình tiết khách quan của vụ án mà còn trực tiếp phục vụ cho việc Viện kiểm sát cân nhắc có cần phải kháng nghị hay không đối với phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm. Do đó, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm có quyền hỏi các vấn đề nhằm làm rõ các tình tiết, các căn cứ, giúp đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật nội dung cũng như pháp luật tố tụng được chính xác. Việc hỏi đó không bị coi là vi phạm tố tụng. Tuy nhiên, đây là vấn đề đang có ý kiến khác nhau liên quan đến hiểu, giải thích các quy định của luật. Do đó, cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn để việc nhận thức, áp dụng pháp luật được thống nhất.