Thỏa thuận mua bán là gì? [Chi tiết 2023]

Hợp đồng là sự thoả thuận bằng ý chí giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ về quyền và nghĩa vụ. Thỏa thuận nhất trí này dựa trên quyền tự do hợp đồng. Đặc biệt:

1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại

Tự do hợp đồng là ý tưởng theo đó các cá nhân được tự do đồng ý về các điều khoản của hợp đồng mà không có sự can thiệp của chính phủ. Vì vậy, hợp đồng được coi là sản phẩm của ý chí được hình thành do lợi ích của các bên trong hợp đồng. Hợp đồng là cách thức pháp lý chủ yếu ghi nhận việc xác lập các quan hệ kinh tế, dân sự trong điều kiện kinh tế thị trường.
Việc ban hành Luật Thương mại năm 2005 đã mở ra một khái niệm mới trong thực tiễn thương mại – sự hình thành khái niệm “hợp đồng thương mại”. Trong giới luật cũng có quan điểm cho rằng không nên sử dụng khái niệm này để tránh những hệ lụy không đáng có, đó là sự thiệt thòi của các công ty khi tìm cách phân biệt hợp đồng thương mại với hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn kinh doanh hiện nay, khái niệm này vẫn được sử dụng rộng rãi với nghĩa là “hợp đồng trong hoạt động kinh doanh”. Có thể thấy, khái niệm “hợp đồng thương mại” vẫn tồn tại trong đời sống kinh tế và pháp lý, có nghĩa là hợp đồng được xác lập trong lĩnh vực thương mại.
Hợp đồng mua bím là một loại hợp đồng thương mại. Về mặt lý luận, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại mua bán hàng hóa cũng là một loại hợp đồng mua bán tài sản. Tuy nhiên, hợp đồng thương mại nói chung, đặc biệt là hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại có những điểm khác biệt so với hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán tài sản. Các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam không định nghĩa hợp đồng mua bán hàng hóa mà dựa trên các khái niệm chung về hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán tài sản (theo Điều 385 BLDS 2015 thì hợp đồng có hiệu lực pháp luật. Xác lập, sửa đổi hoặc chấm dứt thỏa thuận đạt được Điều 430. Hợp đồng mua bán nhà ở là sự thỏa thuận giữa các bên, bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán) và Luật Thương mại 2005 Khái niệm mua bán hàng hóa có thể xuất phát từ khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại (gọi chung là hợp đồng thương mại). Đó là hợp đồng mua bán hàng hóa. ) như sau:
“Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên. Bên nguyên có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và thu tiền; bên mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán, nhận hàng và được quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Cách hiểu về hợp đồng mua bán hàng hóa trên đây cũng tương tự như cách hiểu của một số quốc gia khác.
Ví dụ: Theo luật của Pháp, hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận trong đó một bên có nghĩa vụ giao đối tượng và bên kia có nghĩa vụ trả tiền, hoặc luật Anh định nghĩa hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng trong đó bên bán chuyển nhượng hoặc chuyển nhượng đối tượng bằng cách đồng ý chuyển nhượng quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và đổi lại một số tiền thích hợp.

2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại

Hợp đồng mua bán có bản chất giống như hợp đồng mua bán tài sản, là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên, đó là: bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản/hàng hóa cho bên mua và nhận tiền thanh toán. ; bên mua có nghĩa vụ thanh toán và tài sản/hàng hóa được mua có quyền sở hữu.
Mặt khác, hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại còn được nhận biết qua các dấu hiệu cụ thể sau:
Thứ nhất, chủ thể chính của hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân.
Đối tượng của hợp đồng là các bên giao kết và thực hiện hợp đồng. Một bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa phải là thương nhân. Các chủ thể khác của hợp đồng mua bán có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân.
Đặc điểm về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại khác với đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản dân sự. Theo quy định của Bộ luật Dân sự, chủ thể của hợp đồng mua bán bất động sản là cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại (đơn vị nhà nước) có đủ năng lực hành vi dân sự. , đơn vị trực thuộc Lực lượng vũ trang nhân dân; đoàn thể chính trị; tập đoàn kinh tế; đoàn thể xã hội nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi lợi nhuận khác).
Sở dĩ có sự khác biệt này là do, thương nhân là chủ thể hoạt động kinh doanh, và để thực hiện hoạt động kinh doanh thì cần phải đáp ứng một số yêu cầu về vốn, yêu cầu về tư cách pháp nhân, một số yêu cầu. Điều kiện chuyên môn phải có để thực hiện hoạt động kinh doanh thường xuyên và độc lập trên thị trường. Tác động kinh tế – xã hội của hoạt động thương mại cũng khác so với giao dịch dân sự. Vì vậy, có một số khác biệt trong việc quản lý hoạt động thương mại ở các quốc gia khác nhau. Một trong những yêu cầu có thể. Quản lý nhà nước là việc quy định các điều kiện để các chủ thể tham gia hoạt động thương mại nói chung, đặc biệt là hoạt động mua bán hàng hóa, tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại được đăng ký thương nhân. Quy định về nghĩa vụ đăng ký thương mại hình thành vị trí quản lý của nước uỷ quyền thương mại đối với hoạt động thương mại.
Do yêu cầu về chủ thể của hoạt động thương mại, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là thương nhân, hoặc có trường hợp chỉ bên bán mới phải là thương nhân. Trong quan hệ mua bán hàng hoá, người bán phải là thương nhân làm nghề và có thu nhập từ việc mua bán hàng hoá. Người mua có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân tìm mua hàng hóa để bán lại kiếm lời hoặc mua hàng hóa phục vụ nhu cầu công việc, cuộc sống.
Hiện nay, trong thực tiễn thương mại, có những chủ thể kinh doanh chính thức độc lập không cần đăng ký với ngành công thương. Theo quan niệm của pháp luật Việt Nam, những đối tượng này không phải là doanh nhân. Tuy nhiên, cá nhân có hoạt động kinh doanh độc lập và nhìn chung không phải đăng ký kinh doanh vẫn có thể ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với tư cách là người mua.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Theo Điều 3(2) của Đạo luật Thương mại 2005, hàng hóa bao gồm:
+ Các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
Các vật thể gắn liền với mặt đất.
Qua quy định của Luật Thương mại 2005 về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa cần lưu ý một số điểm sau:
– So với Luật Thương mại 1997, khái niệm hàng hóa được mở rộng hơn để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới, nội hàm của khái niệm hàng hóa (dưới góc độ pháp luật thương mại) có thể khác nhau ở mỗi nước, tùy thuộc vào đặc điểm văn hóa của mỗi quốc gia. truyền thống, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu giao lưu thương mại quốc tế. Ngay trong một quốc gia, nội dung của khái niệm hàng hóa sẽ khác nhau do các thời kỳ phát triển kinh tế khác nhau. Nhưng nhìn chung, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là hàng hóa được phép lưu thông và có tính chất thương mại (sinh lời). Trường hợp các bên giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa cấm lưu thông trên thị trường thì hợp đồng mua bán hàng hóa đó vô hiệu. Vì vậy, việc xác định hàng hóa là đối tượng mua bán sẽ là một trong những điều kiện ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa. Kết hợp với tính chất đặc thù của hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng mua bán hàng hoá được phân biệt với hợp đồng dịch vụ lao động Hợp đồng dịch vụ lao động là công việc mà bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện theo yêu cầu của bên mua. Người dùng.Dịch vụ sử dụng. Hàng hóa là sản phẩm hữu hình có thuộc tính lưu thông, thương mại, được luân chuyển trong quá trình mua bán hàng hóa. Khác với hàng hóa, dịch vụ là sản phẩm vô hình, không thể làm chủ, xác lập quyền sở hữu với dịch vụ, cất giữ, lưu trữ.
Ở Việt Nam, Luật Thương mại 1997 và Luật Thương mại 2005 có những khái niệm khác nhau về hàng hóa. Khoản 3 Điều 5 Luật Thương mại 1997 quy định: Hàng hóa bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác lưu thông trên thị trường, mặt bằng dùng vào hoạt động kinh doanh. Hoạt động dưới cách thức cho thuê, mua bán. Khái niệm hàng hóa trong Luật Thương mại 2005 không chỉ bao gồm hàng hóa hữu hình tồn tại vào thời gian giao kết hợp đồng mà còn bao gồm cả hàng hóa sẽ được hình thành trong tương lai. Việc mở rộng khái niệm hàng hóa không chỉ thể hiện phạm vi điều chỉnh rộng hơn của pháp luật thương mại mà còn đáp ứng yêu cầu mở cửa của Việt Nam với thế giới bên ngoài, hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và sự điều chỉnh pháp luật trên phạm vi toàn cầu.
– So với đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản, có thể thấy đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản rộng hơn so với hợp đồng mua bán hàng hóa.
Theo quy định tại Điều 431 Bộ luật Dân sự 2015, đối tượng của hợp đồng mua bán nhà ở là tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự. Khái niệm tài sản tại Điều 105 BLDS 2015 bao gồm: vật, tiền, chứng khoán và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và tài sản cá nhân có thể là tài sản hiện tại hoặc tương lai. Quyền tài sản là quyền tính bằng tiền, bao gồm quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Quyền sở hữu phải được xác định bởi một thỏa thuận cụ thể đối với loại quyền sở hữu và người bán phải có tài liệu hoặc bằng chứng khác cho thấy quyền sở hữu thuộc sở hữu của anh ta. Có ba loại quyền tài sản:
– Quyền tài sản phát sinh từ quyền chuyên gia; Quyền sở hữu công nghiệp; Quyền đối với giống cây trồng; Quyền đòi nợ;
– Quyền sử dụng đất;
– Quyền phát triển nguồn lực.
Đồng thời, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ là vật gắn liền với mảnh đất. Vì vậy, các loại tài sản như thương phiếu (cổ phiếu, trái phiếu) là các quyền tài sản không thuộc phạm vi giám sát của Luật Thương mại 2005. Quan hệ mua bán cổ phiếu, trái phiếu giữa các thương nhân có bản chất giống như quan hệ mua bán hàng hóa trong thương mại, nhưng do cách hiểu của khái niệm hàng hóa nên giao dịch mua bán cổ phiếu, trái phiếu không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại 2005. Đó cũng là vấn đề hoạt động nghiên cứu khoa học chính đáng cần được thảo luận.
– Hợp đồng thương mại mua bán hàng hoá có thể phát sinh việc giao nhận hàng hoá vào một thời gian nào đó trong tương lai. Hàng hóa mua bán trong các sàn này không phải là hàng hóa thông thường mà phải là hàng hóa được xác định thuộc Danh mục hàng hóa mua bán trên Sở giao dịch chứng khoán do Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) quy định. Các Điều 64 đến 66 và 68 Luật Thương mại 2005 về mua bán hàng hóa thông qua trao đổi hàng hóa đã chứng minh cho nhận định trên.
Các quy định của Luật Thương mại 2005 tương tự như luật của Anh. Vì vậy, luật Anh chia hợp đồng thành hai loại: hợp đồng mua bán và hợp đồng thoả thuận mua bán. Mua bán hàng hóa là một hợp đồng theo đó quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua sau khi hợp đồng được ký kết. Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa trong tương lai hoặc khi một số điều kiện được đáp ứng.
Thứ ba, mục đích chính của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa là kiếm lời. Đặc điểm này bắt nguồn từ và liên quan đến đặc điểm của chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa – thương nhân. Về lý luận và trên thực tiễn, thương nhân thường tiến hành hoạt động thương mại (bao gồm cả hoạt động mua bán) nhằm mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa không nhằm mục đích sinh lợi. Các hợp đồng được ký kết giữa các bên phi lợi nhuận và các thương nhân được thực hiện trong lãnh thổ Việt Nam về nguyên tắc không phải tuân theo luật thương mại, trừ khi bên phi lợi nhuận lựa chọn làm như vậy. Áp dụng Luật Thương mại (mục 3(1) Luật Thương mại 2005).
Thứ tư, cách thức của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được giao kết bằng văn bản thì áp dụng các quy định đó.
Ví dụ, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện bằng văn bản hoặc cách thức khác có hiệu lực pháp lý tương đương.
Hình thức của hợp đồng là cách thức các bên thể hiện, ghi nhận ý định giao kết hợp đồng.Về nguyên tắc, các bên tự do lựa chọn cách thức của hợp đồng mua bán hàng hoá, trừ những cách thức mà pháp luật có quy định. Hình thức cụ thể của hợp đồng được quy định và các bên mua, bán phải tuân theo các quy định của pháp luật về cách thức của hợp đồng. Pháp luật thương mại quy định nhiều cách thức thể hiện hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng người mua và người bán phải ký kết hợp đồng bằng văn bản. Ưu điểm của hợp đồng bằng văn bản so với hợp đồng bằng miệng là:
– Ghi rõ quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng;
– Là cơ sở pháp lý rõ ràng để các bên xem xét và thực hiện đúng, trọn vẹn hợp đồng, đồng thời cũng là văn bản pháp lý cần thiết để đơn vị có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hợp đồng.
Theo quy định của “Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, CISG thừa nhận nguyên tắc tự do hợp đồng, nghĩa là hợp đồng mua bán hàng hóa không nhất thiết phải được lập thành văn bản mà có thể được lập thành văn bản. được thiết lập ở dạng miệng, có thể được chứng minh bằng bất kỳ phương tiện nào kể cả nhân chứng.

Một số lưu ý:

– Theo pháp luật Việt Nam, động sản là tài sản không phải là bất động sản. Bất động sản bao gồm: đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất kể cả tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; tài sản khác gắn liền với đất.
Vì vậy, đất đai không phải là hàng hóa để mua bán, phù hợp với quy định của Luật Đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước uỷ quyền chủ sở hữu”. Tuy nhiên, nhà và công trình phải luôn tồn tại cùng với đất đai – quyền sử dụng đất. Mặt khác còn có các trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng các giao dịch này được điều chỉnh bởi Luật Đất đai. Do đó, hợp đồng mua bán hàng hóa là nhà ở, đất đai, công trình phụ trợ không chỉ chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, Bộ luật Thương mại mà còn chịu sự điều chỉnh của Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đất đai. Đây cũng là một vấn đề phức tạp khi luật áp dụng cho việc mua bán tài sản gắn liền với đất đai.
– Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, hai bên thỏa thuận mua và bán một số lượng nhất định về một loại hàng hóa nhất định thông qua sở giao dịch hàng hóa theo tiêu chuẩn của sở giao dịch vào thời gian nào đó. Qua định nghĩa về mua bán hàng hóa trên sở giao dịch hàng hóa, chúng ta có thể thấy sự khác biệt giữa mua bán hàng hóa thông thường không qua sở giao dịch hàng hóa và mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch hàng hóa. Từ đó, các hợp đồng mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch hàng hóa và không có sở giao dịch hàng hóa cũng có sự khác biệt.
Hợp đồng mua bán trao đổi hàng hóa trước hết là một loại hợp đồng mua bán hàng hóa nên nó cũng mang những đặc điểm chung của hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch hàng hóa có những đặc điểm riêng. Đó là:
+ Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa phải là hàng hóa do sở giao dịch hàng hóa quản lý hoặc ở Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định. Đồng thời, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa không trao đổi hàng hóa là hàng hóa được phép lưu thông.
+ Một phần nội dung của hàng hóa mua bán qua Sở giao dịch như phẩm chất, phẩm chất, thời gian giao hàng… phải phù hợp với tiêu chuẩn mà Sở giao dịch yêu cầu chứ không phải theo ý muốn của Sở giao dịch. Thỏa thuận giữa người mua và người bán. Ngược lại, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa không được ký kết thông qua sở giao dịch hàng hóa có quyền thỏa thuận về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa trên nguyên tắc không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com