1. Xu hướng ban hành các quy định kỹ thuật

Sự cần thiết bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người, động thực vật và môi trường sẽ không ngừng giảm đi. Có thể dễ dàng dự đoán rằng trong tương lai các chính phủ sẽ ban hành các quy định kỹ thuật điều chỉnh thêm ngày càng nhiều sản phẩm hơn và cũng nghiêm ngặt hơn. Vì vậy, nhu cầu về các tiêu chuẩn quốc tế tiếp tục tăng. Vấn đề thách thức chính hiện nay là làm thế nào để rút ngắn thời gian soạn thảo và chấp thuận các tiêu chuẩn này mà không làm giảm chất lượng của văn bản.

Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau đánh giá sự phù hợp cho tới nay hầu hết là trên cơ sở song phương. Tuy nhiên, bằng hiệp định song phương thì không thể để giải quyết những vấn đề công nhận lẫn nhau, số các thỏa thuận cần thiết thường là không thể quản lý. Vấn đề chính hiện này là cần phát triển các thỏa thuận đa bên và toàn cầu mà trong đó tất cả các nước có thể tham gia một cách bình đẳng mà không làm giảm chất lượng việc đánh giá sự phù hợp.

2. Rào cản kỹ thuật đối với thương mại quốc tế

Cho đến nay chưa có một định nghĩa hay một cách hiểu thống nhất về hoạt động thương mại quốc tế. Trên thế giới chỉ thống nhất ở điểm: Thương mại quốc tế là tổng hợp các hoạt động, giao dịch hàng hóa và dịch vụ trong quan hệ thương mại quốc tế. Điểm chưa thống nhất là ở chỗ tham gia vào các quan hệ thương mại quốc tế thì đối tượng tham gia gồm nhiều chủ thể khác nhau. Có quan hệ thương mại quốc tế phát sinh giữa các quốc gia (kể cả các nước, vũng lãnh thổ) nhưng cũng có quan hệ thương mại quốc tế phát sinh giữa các doanh nghiệp, các công ty thương mại của các nước khác nhau với nhau. Quan hệ thương mại quốc tế cũng có thể có sự tham gia của các tổ chức quốc tế như Tổ chức Thương mại thể giới (WTO) hoặc của cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc như Uỷ ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL)…

Thương mại quốc tế có thể hiểu là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương với một tỷ lệ lớn trong GDP. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài.

Trong thương mại quốc tế, khái niệm “rào cản kỹ thuật đối với thương mại” (technical barriers to trade) thực chất đó là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu và/hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp của hàng hoá nhập khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (sau đây gọi chung là các biện pháp kỹ thuật – biện pháp TBT).

Rào cản kỹ thuật đối với thương mại có thể do những đòi hỏi chung về các sản phẩm ở một nước (hay khu vực kinh tế) tạo nên. Những đòi hỏi này có thể liên quan tới đặc tính sản phẩm; quy trình và các phương pháp sản xuất; bao gói, nhãn mác và thông tin cần phải cung cấp; và việc đánh giá sự phù hợp. Chẳng hạn, các đặc tính sản phẩm có thể liên quan tới kiểu dáng, kích cỡ, vệ sinh và an toàn, công dụng, các thành phần hóa chất, giá trị dinh dưỡng…

Những yêu cầu về quy trình và phương pháp sản xuất chủ yếu được sử dụng khi các đặc tính sản phẩm không thể đo lường hay thử nghiệm một cách khả thi. Các ví dụ điển hình là những yêu cầu về các phương pháp hàn đối với các bình áp suất, hay những yêu cầu vệ sinh đối với các lò mổ và các cơ sở chế biến sữa. Cũng thuộc loại này là những đòi hỏi nhà sản xuất phải vận hành một hệ thống chất lượng.Những đòi hỏi vế đóng gói, nhãn mác và thông tin cần phải cung cấp tăng mạnh, đặc biệt đối với lương thực và các mặt hàng tiêu dùng khác. Thay vì tuyên truyền một số đặc tính nào đó của sản phẩm, thì nay sự lựa chọn cuối cùng thuộc về người tiêu dùng đã có đủ thông tin.

Các biện pháp kỹ thuật này về nguyên tắc là cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ những lợi ích quan trọng như sức khoẻ con người, môi trường, an ninh… Vì vậy, mỗi nước thành viên WTO đều thiết lập và duy trì một hệ thống các biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu.

Tuy nhiên, ở trên thực tế, biện pháp kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm ẩn đối với thương mại quốc tế bởi chúng có thể được sử dụng vì mục tiêu bảo hộ cho sản xuất trong nước, gây khó khăn cho việc thâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước nhập khẩu. Do đó chúng còn được gọi là “rào cản kỹ thuật đối với thương mại”. Rào cản kỹ thuật đối với thương mại quốc tế có tầm quan trọng và nó gia tăng trong 30 năm qua cả ở khía cạnh tương đối và khía cạnh tuyệt đối. Nói một cách tương đối, thì rào cản kỹ thuật ngày càng trở nên quan trọng hơn, vì các rào cản truyền thống như thuế quan và những hạn chế về số lượng phần lớn đã được loại bỏ sau khi Hiệp định Chung về Thuế quan & Thương mại (GATT) và các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) ra đời.

3. Hiệp định song phương

Hiệp định thương mại song phương (Bilateral Trade Agreements) là hiệp định thương mại giữa hai quốc gia, trong đó nêu ra những điều kiện để tiến hành các hoạt động thương mại.

Về đặc trưng của loại hiệp định này, nếu cả hai bên kí kết đều là thành viên của WTO, thì hiệp định thương mại song phương thường hướng tới một chương trình tạo quan hệ thương mại và xúc tiến thương mại thuận lợi hơn so với những qui định thuộc WTO.

Nếu một bên không phải là thành viên của WTO, hiệp định thương mại song phương hướng tới những qui định của WTO, theo đó thỏa thuận các biện pháp cho dòng thương mại được lưu thông thuận lợi và giải quyết các vấn đề được nhanh chóng.

Quá trình thực hiện hiệp định thương mại song phương thường có kiểm điểm định kì sự phát triển của thương mại ở cấp bộ trưởng hoặc ở cấp chuyên viên.

4. Hiệp định đa phương

Hiệp định thương mại đa phương (Multilateral Trade Agreements) là hiệp định do nhiều quốc gia kí kết về các lĩnh vực hoạt động thương mại mà các thành viên cùng có nghĩa vụ thực hiện.

Thông thường, hiệp đinh thương mại đa phương có nhiều thành viên đại diện cho các quốc gia tham gia buôn bán ở các mức nhỏ, trung bình và lớn.

Quy chế thành viên trong hiệp định này là rộng, nhưng muốn gia nhập thường phải thể hiện được chế độ thương mại của họ phù hợp với mục tiêu của hiệp định và các điều kiện thâm nhập thị trường của họ gần giống như điều kiện của các thành viên khác; nếu chưa phù hợp, cần thiết phải có sự điều chỉnh theo yêu cầu của từng hiệp định.

Mục tiêu: Hiệp định thương mại đa phương nhằm mở rộng và tự do hóa thương mại trong các điều kiện không phân biệt đối xử , công khai và minh bạch , được qui định trong các quyền và nghĩa vụ. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ, tất cả các bên sẽ có cơ hội nâng cao phúc lợi thông qua các quan hệ thương mại.

5. Ví dụ về ột số hiệp định song phương và đa phương trên thế giới

a. Hiệp định song phương

Cụ thể Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam – Anh ký Hiệp định thương mại song phương.

Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Vương quốc Anh (UKVFTA) vừa được ký tối 29/12.

UKVFTA được ký tại London (Anh) lúc 21h tối theo giờ Việt Nam. Vì Covid-19, lãnh đạo Chính phủ Việt Nam và Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh không trực tiếp có mặt để ký theo thông lệ. Thay vào đó, chính phủ hai nước đã uỷ quyền cho các đại sứ.

Hiệp định UKVFTA là bước tiếp nối quan hệ thương mại Việt – Anh khi Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu – Việt Nam (EVFTA) không còn áp dụng với Anh sau ngày 31/12/2020 vì Brexit. Với các cam kết cơ bản dựa trên EVFTA nhưng được điều chỉnh phù hợp hơn với hai nước, UKVFTA sẽ chính thức có hiệu lực từ 23h ngày 31/12/2020.

Theo cam kết, sau 6 năm UKVFTA có hiệu lực, Anh sẽ xoá bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. EU đã cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan (TRQ) với thuế nhập khẩu là 0% với một số mặt hàng.

Về phần mình, Anh cho biết sẽ dựa trên số liệu thống kê của EU về trao đổi thương mại song phương thực tế giữa Việt Nam và Anh giai đoạn 2014-2016 để quyết định chính sách tương tự. Anh cũng cam kết rà soát nâng lượng TRQ với mặt hàng gạo của Việt Nam sau 3 năm kể từ ngày UKVFTA có hiệu lực.

Các ngành hàng xuất khẩu được hưởng lợi lớn từ hiệp định này là thủy hải sản, gạo, dệt may, gỗ, rau quả, da giày…

Ngược lại, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi hiệp định đi vào hiệu lực với 48,5% số dòng thuế, chiếm 64,5% kim ngạch nhập khẩu từ Anh. Sau 6 năm, số dòng thuế được xoá bỏ nâng lên 91,8%, tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu và sau 9 năm là khoảng 98,3% số dòng thuế (chiếm 99,8% kim ngạch).

Ngoài ra, Hiệp định còn đưa ra các cam kết quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm, các rào cản kỹ thuật trong thương mại, dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý – thể chế.

b. Hiệp định đa phương

Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch – GATT là hiệp định thương mại đa phương đầu tiên có hiệu lực từ năm 1948.

Ngày 1 tháng 1 năm 1995, Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO ra đời thay thế cho GATT, theo đó các thành viên WTO kí hiệp định thương mại đa phương với 4 lĩnh vực điều chỉnh quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên, đó là:

– Hiệp định thương mại hàng hóa (GATT): Hiệp định về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa vật chất như nguyên liệu thô, bán thành phẩm và thành phẩm, trong đó các bên kí kết hiệp định thống nhất các nguyên tắc thực hiện trong quan hệ buôn bán.

– Hiệp định Thương mại dịch vụ (GATS): Hiệp định về cung cấp dịch vụ theo các điều kiện thương mại cho đối tác thông qua thương mại xuyên biên giới hay thông qua hiện diện thương mại.

– Hiệp định về Quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (TRIPs). Hiệp định này nhằm giải quyết căng thẳng gia tăng trong thương mại quốc tế nảy sinh từ những tiêu chuẩn khác nhau để bảo hộ và thực hiện quyền sở hữu trí tuệ.

– Hiệp định về Các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs). Hiệp định này đề cập đến những yêu cầu đối với nhà đầu tư nước ngoài ở những biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại như: hàm lượng nội địa, cân đối thương mại, cân đối ngoại hối, tiêu thụ trong nước, yêu cầu sản xuất, tỉ lệ nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, chuyển lợi nhuận, tỉ lệ góp vốn…

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).