Khách hàng: Kính thưa Luật sư, Luật sư hãy giúp tôi phân tích hai yếu tố cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế là: tài chính và sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp.
Cảm ơn!
Trả lời:
1. Khái quát các yếu tố cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Biện pháp tự vệ là một trong ba bộ phận cẩu thành của biện pháp phòng vệ thương mại. Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ, hỗ trợ ngành sản xuất hàng hoả tương tự, hoặc cạnh tranh trực tiếp của nước nhập khẩu trong trường hợp khẩn cẩp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng do tình trạng gia tăng của hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra.
Các yếu tố cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế bao gồm những yếu tố sau:
– Cơ sở pháp lý về tự vệ thương mại;
– Bộ máy tổ chức;
– Yếu tổ năng lực con người trong áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tể;
– Cơ sở vật chất kĩ thuật;
– Tài chính;
– Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp.
2. Yếu tố tài chính trong cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Trong các vụ việc điều tra áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại, cơ quan điều tra phải thực hiện rất nhiều hoạt động.
Tài chính là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện điều tra áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại. Đây là điều kiện quyết định khả năng thực thi công vụ tin liên quan đến tự vệ thương mại. Hiện nay, nguồn tài chính là một vấn đề khó khăn đối cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại. Chính phủ các nước trên thế giới đều dành một nguồn kinh phí để đảm bảo thực thi nhiệm vụ này. Ngân sách cho điều tra áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại bao gồm các khoản:
– Tiếp cận các nguồn thông tin, tài liệu mang tính chất thương mại từ các tổ chức nghiên cửu, thống kê có ùy tín. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, khách quan để đánh giâ các tiêu chí vĩ mô và vi mô.
– Trưng cầu giám định nhằm kiểm tra tính chính xác của thông tin, tài liệu, thực hiện thông qua các tổ chức giám định trong và ngoài nước. Các tổ chức tư nhân uy tín thực hiện các nhiệm vụ này và có thu phí.
– Điều tra tại chỗ, bao gồm điều tra tại nước ngoài. Các bảng câu hỏi điều tra mà cơ quan điều tra ban hành và xử lý các câu trả lời trong giai đoạn bắt đầu điều tra.
3. Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp
Khi nói về cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan nhà nước hoạt động có tính chuyên nghiệp, có chức năng điều hành xã hội trên cơ sở, các cơ quan này được thiết lập nhằm thực thi và kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước, đảm bảo anh ninh, trật tự xã hội.
Tuỳ thuộc vào vị trí của mình, từng cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lí nhà nước được pháp luật giao những quyền hạn nhất định để thực hiện chức năng thay mặt nhà nước điều hành xã hội trên phạm vi lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực theo thẩm quyền do luật định.
Về điều kiện tiên quyết yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại để thực hiện khởi xướng điều tra xuất phát từ phía doanh nghiệp, khi doanh nghiệp đã có bằng chứng chứng minh có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh/nhập khẩu ồ ạt cũng như tác động của chúng tới thiệt hại của doanh nghiệp.
Trách nhiệm quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức có liên quan được phân định rõ ràng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan quản lý nhà nước đối với hàng hoá nhập khẩu chuýên ngành.
Cơ chế trao đổi, cung cấp, công khai thông tin, đảm bảo chính xác, đầy đủ, kịp thời. Yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin phải căn cứ vào nhu cầu quản lý nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan yêu cầu. Việc sử dụng thông tin doanh nghiệp phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.
Phối hợp trong điều tra vụ việc tự vệ thương mại phải bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, kịp thời; không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung điều tra trong cùng thời gian thực hiện điều tra.
4. Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Đối với thuật ngữ “tự vệ” theo WTO được hiểu là hành động khẩn cấp của nước nhập khẩu trước việc gia tăng nhập khẩu của một loại hàng hoá cụ thể, khi mà sự gia tăng nhập khẩu này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa đó trong nước.
Tuy nhiên, đây chỉ là quan niệm, cách hiểu cơ bản và vận dụng về biện pháp tự vệ, không phải là định nghĩa phản ánh đầy đủ bản chất của hành động tự vệ. Vì vậy, trong các tài liệu nghiên cứu về tự vệ của WTO có đưa ra thêm một số giải thích bổ sung.
Chẳng hạn như, trong tài liệu giải thích về Điều XIX Hiệp định GATT 1994, ở mục 797 khi nhắc đến phán quyết của Uỷ ban phúc thẩm trong vụ kiện Argentina – Footwear nêu rõ biện pháp tự vệ theo qui định tại Điều XIX có đặc trưng là tính khẩn cấp, được áp dụng chỉ duy nhất trong trường hợp mà do kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định GATT 1994, một thành viên nhận thấy quốc gia mình rơi vào những hoàn cảnh mà “không lường trước được” hoặc “ngoài dự đoán” khi đặt ra/đàm phán và ký kết cam kết liên quan.
Yong Shik Lee, Safeguard Measures in world trade, The Legal Analysis, Third Edition (2014) (Các biện pháp tự vệ trong thương mại thế giới: Phân tích pháp lý. Tái bản lần 3 (2014)) xác định, thuật ngữ “biện pháp tự vệ” được sử dụng để đề cập đến hạn chế nhập khẩu, được áp dụng như là một biện pháp tạm thời khi có sự gia tăng nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp.
Theo Yong Shik Lee, tự vệ còn có thể hiểu rộng hơn, gồm những trường hợp các bên “dị ngược lại” với những cam kết của mình và hạn chế nhập khẩu, không tính đến việc có hay không hành vi thương mại không lành mạnh: Điều XIX, XII, XVIII Hiệp định GATT 1994, Hiệp định Tự vệ (Hiệp định SG), Hiệp định nông nghiệp (AOA), Điều XII Hiệp định GATS.
Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc, cho phép tự vệ cụ thể và đặc biệt là đến các sản phẩm trong thời gian chuyển đổi, chỉ áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu từ nước này. Biện pháp tự vệ nói chung (Điều XIX của GATT) được áp dụng cho mọi loại hàng hoá, trong khi những biện pháp tự vệ khác chỉ áp dụng giới hạn cho một số hàng hoá (sản phẩm nông nghiệp, dệt may), hoặc có thể không hướng đến việc bảo vệ hay ngăn ngừa thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước (đối với trường hợp sử dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ cán cân thanh toán).
Mặc dù có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng để có thể hiểu và sử dụng khái niệm này trong thực tế, và phù hợp với quan niệm cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, trong phạm vi của cuốn sách này, biện pháp tự vệ được sử dụng sẽ là: “Biện pháp tự vệ là một trong ba bộ phận cẩu thành của biện pháp phòng vệ thương mại. Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ, hỗ trợ ngành sản xuất hàng hoả tương tự, hoặc cạnh tranh trực tiếp của nước nhập khẩu trong trường hợp khẩn cẩp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng do tình trạng gia tăng của hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra”.
5. Thương mại quốc tế
Thứ nhất, khái niệm thương mại quốc tế theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
“Thương mại quốc tế” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực kinh tế của các quốc gia trên thế giới.
Thương mại quốc tế đó là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất qua biên giới giữa các quốc gia, hoặc/và là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất giữa các tổ chức cá nhân trong nước với đối tác nước ngoài.
Theo tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) xem xét thương mại quốc tế trên 4 lĩnh vực chủ yếu, đó là:
– Thương mại hàng hoá;
– Thương mại dịch vụ;
– Thương mại liên quan đến đầu tư; và
– Thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, phạm vi nghiên cứu và thực tiễn các chính sách quản lý đối với thương mại quốc tế đã được mở rộng ra nhiều lĩnh vực và chủ thể hơn, như liên quan đến mối quan hệ giữa con người với con người như lao động việc làm, quyền con người…, và mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên như môi trường, …
Thứ hai, khái niệm thương mại quốc tế xét trên phương diện là một quá trình kinh tế và ngành kinh tế
Khi xét trên phương diện là một quá trình kinh tế, thương mại quốc tế là một quá trình có phạm vi và qui mô quốc tế, bắt đầu từ khâu nghiên cứu xác định thị trường cho đến sản xuất, lưu thông đến người tiêu dùng cuối cùng và theo một chu trình lặp đi lặp lại với qui mô, tốc độ lớn hơn.
– Trên phương diện là một ngành kinh tế, thương mại quốc tế là một lĩnh vực phân phối được chuyên môn hoá, có tổ chức, có phân công và hợp tác giữa các đối tác của hai hay nhiều quốc gia với nhau với khách thể tác động là hàng hoá, dịch vụ…
Hoạt động thương mại theo nghĩa rộng được hiểu đó là mọi hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, đồng nghĩa với hoạt động kinh doanh.
Mà hoạt động “kinh doanh” đây là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi“ (Theo Luật Doanh nghiệp năm 2020). Hoạt động kinh doanh thực hiện trong nhiều lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hóa và dịch vụ.
Như vậy, hoạt động thương mại bao gồm không chỉ các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ mà còn là các hoạt động đầu tư cho sản xuất dưới các hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, được điều chỉnh bằng Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Kinh doanh bất động sản , Luật Chứng khoán và các Luật chuyên ngành khác.
Hoạt động thương mại theo nghĩa theo nghĩa hẹp được quy định tại Luật thương mại năm 2005 , theo đó “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác“ .
Như vậy, hoạt động thương mại được định nghĩa theo Luật thương mại chỉ tập trung vào các hoạt động kinh doanh trong 2 khâu lưu thông và dịch vụ, không bao hàm khâu đầu tư cho sản xuất.
Trân trọng!