Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm?

Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm đã gây ra sự mất cân bằng trong nền kinh tế và gây ra các hậu quả cho nền kinh tế thị trường. Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích về nguyên tắc xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo hướng dẫn của pháp luật và Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm? Cùng cân nhắc qua nào.

1. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm

Theo quy định tại Điều 12 Luật cạnh tranh 2018 quy định về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm các thỏa thuận sau:

– Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan, cụ thể bao gồm:

  • Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
  • Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn gửi tới hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
  • Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

– Thảo thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bao gồm các thỏa thuận sau:

  • Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc gửi tới hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
  • Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh.
  • Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận.

– Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan khi những thỏa thuận này gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường, cụ thể bao gồm các thỏa thuận như sau:

  •  Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư.
  • Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
  • Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận.
  • Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn gửi tới hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận.
  • Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh

– Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định khi các thỏa thuận này gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể trên hị trường, bao gồm các thỏa thuận như sau:

  • Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
  • Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn gửi tới hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
  • Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
  • Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư.
  • Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
  • Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận.
  • Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn gửi tới hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận.
  • Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.

2. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối

Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối bao gồm các thỏa thuận sau:

– Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh;

– Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận;

Những thảo thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Khoản 5, 6 Điều 11 Luật cạnh tranh năm 2018 luôn hàm chứa tính chất hạn chế cạnh tranh mà không có bất cứ một cơ sở nào để có thể biện biện hộ về hiệu quả của chúng đối với thị trường. Nói cách khác, hai loại thỏa thuận này là những thỏa thuận luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh nên chỉ cần có đủ căn cứ để kết luận các doanh nghiệp đã thiết lập nên một trong ba thỏa thuận trên là có thể kết luận đã có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Với bản chất hạn chế cạnh tranh, các thỏa thuận này luôn cấu thành nên thỏa thuận phản cạnh tranh cho dù mục đích phản cạnh tranh chưa được thực hiện trong thực tiễn.

3. Các thỏa thuận khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên

Các thỏa thuận sau: thỏa thuận trực tiếp hoặc gián tiếp ấn định giá hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn gửi tới hàng hóa và cung ứng dịch vụ; thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ; hạn chế về công nghệ và Thỏa thuận đầu tư và phát triển công nghệ; Thỏa thuận đặt điều kiện buộc doanh nghiệp khác phải ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ hoặc đặt ra cho doanh nghiệp khác nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng, nếu các bên thỏa thuận rằng thị phần kết hợp của họ trên thị trường liên quan đạt từ 30% trở lên. Các thỏa thuận không bị cấm tuyệt đối chỉ có thể bị cấm khi tổng thị phần của các công ty tham gia trên thị trường liên quan đạt trên 30%. Mục 24 Luật Cạnh tranh 2018 quy định như sau:

“Điều 24. Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường

1. Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đáng kể được xác định theo hướng dẫn tại Điều 26 của Luật này hoặc chiếm trên 30% thị phần trên thị trường liên quan được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường.

2. Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu hành vi liên kết của họ có tác động hạn chế cạnh tranh và có sức mạnh thị trường đáng kể theo hướng dẫn tại Điều 26 của Luật này hoặc có thị phần toàn bộ khi thuộc một trong các trường hợp sau: Trường hợp trạng thái:

a) Thị phần kết hợp của hai công ty trên thị trường liên quan đạt hoặc vượt quá 50%;

b) Thị phần kết hợp của ba công ty trên thị trường liên quan đạt hoặc vượt quá 65%;

c) Tổng thị phần của bốn công ty trên thị trường liên quan đạt trên 75%;

d) Tổng thị phần của năm doanh nghiệp trở lên trên thị trường liên quan đạt hoặc vượt quá 85%.

3. Nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường quy định tại khoản 2 điều này không bao gồm các doanh nghiệp có thị phần dưới 10% trên thị trường liên quan.

4. Miễn trừ

3.1 Các trường hợp được miễn trừ

Điều 14 Luật cạnh tranh quy định về các trường hợp miễn trừ đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, cụ thể như sau:

– Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 bị cấm theo hướng dẫn tại Điều 12 của Luật này được miễn trừ có thời hạn nếu có lợi cho người tiêu dùng và đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:

  • Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ;
  • Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế;
  •  Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
  • Thống nhất các điều kiện thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá.

– Thỏa thuận lao động, thỏa thuận hợp tác trong các ngành, lĩnh vực đặc thù được thực hiện theo hướng dẫn của luật khác thì thực hiện theo hướng dẫn của luật đó.

3.2 Cơ sở cho việc miễn trừ trách nhiệm cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Ứng phó với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh luôn đòi hỏi sự thận trọng của mỗi quốc gia, bởi thực tiễn và kinh nghiệm của các nước cho thấy không phải thỏa thuận nào cũng có hại cho thị trường. Vì vậy, quy định về miễn trừ của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau:

– Tự Do Thương Mại:

Tự do thương mại luôn có nghĩa là quyền hợp đồng và hiệp hội. Các chủ thể tham gia thị trường có quyền chủ động liên kết, xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả nhất. Quyền lực công và pháp luật không những không được can thiệp mà còn phải xây dựng cơ chế bảo vệ các hoạt động nói trên. Với tư cách là lực lượng duy trì công lý và bảo vệ quyền lợi, nhà nước và pháp luật chỉ có thể can thiệp vào quyền tự do khi hành vi của một nhóm người đe dọa đến quyền tự do, quyền, lợi ích và tính hợp pháp của những người khác. Khi hiệp hội doanh nghiệp có thể xâm phạm đến lợi ích của doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng và của thị trường thì pháp luật cần có biện pháp ngăn chặn và trừng phạt.

– Cân bằng lợi ích trong bảo vệ pháp luật:

Dưới góc độ tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh luôn có hai mặt. Tương ứng, nhiều hiệp định ít gây hại hơn là có thể gây hại cho cạnh tranh, hoặc nhiều hiệp định có nhiều tác động tích cực đến sự phát triển của thị trường quốc gia bên cạnh việc có thể gây nhiều tác hại làm giảm cạnh tranh. Vì vậy, pháp luật các nước đòi hỏi người thực hiện phải luôn cân nhắc, xem xét mọi khả năng có thể xảy ra để có thái độ trừng phạt hoặc cho phép thực hiện thỏa thuận trên thực tiễn. Trong một số trường hợp, đơn vị thực thi pháp luật sẽ cần cân nhắc giữa lợi ích của thỏa thuận với tác hại tiềm ẩn đối với thị trường để đưa ra quyết định cuối cùng là xử phạt hay cho phép thỏa thuận có lợi. Luật pháp quốc gia sử dụng nguyên tắc pháp quyền để tiến hành đánh giá sơ bộ về tác động của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm giới hạn phạm vi của lệnh cấm. Quy tắc hợp lý cho phép dỡ bỏ lệnh cấm đối với các thỏa thuận có cả hậu quả tích cực và phản cạnh tranh nếu hậu quả tích cực lớn hơn hậu quả phản cạnh tranh.

Tóm lại, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh với tư cách là quan hệ thương mại giữa các doanh nghiệp có thể được phân tích, xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, từ đó có thái độ phù hợp và tương thích của pháp luật và công chúng. Ngoài các điều khoản cấm và trừng phạt đối với các thỏa thuận có thể gây tổn hại đến thị trường, luật cạnh tranh ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều công nhận các tình huống hợp pháp khi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có tác động tích cực đến thị trường. Phạm vi mà luật cạnh tranh cấm hoặc công nhận tính hợp pháp của các thỏa thuận sẽ khác nhau tùy theo chính sách cạnh tranh của mỗi quốc gia.

Trên đây là nội dung về Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm? Luật LVN Group cập nhật được xin gửi đến các bạn đọc, hi vọng với nguồn thông tin này sẽ là nguồn kiến thức hữu ích giúp các bạn hiểu hơn vấn đề trên. Trong quá trình nghiên cứu nếu có vấn đề câu hỏi vui lòng liên hệ công ty Luật LVN Group để được hỗ trợ ngay. Hãy theo dõi website của chúng tôi để nhận được các nội dung trình bày hay về các lĩnh vực khác nữa !.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com