>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900.0191
Luật sư tư vấn:
1. Khái niệm giao kết hợp đồng
Giao kết hợp đồng là Các bên bày tỏ với nhau ý chí về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng trên cơ sở tuân theo nguyên tắc do pháp luật quy định.
– Tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nội dung của nguyên tắc thể hiện hai vế có tầm quan trọng hàng đầu trong giao kết hợp đồng: tự do nhưng không được trái với các đòi hỏi mà pháp luật quy định: không được trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
– Nguyên tắc các bên “tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng trong giao kết hợp đồng”. Trước hết các bên phải có vị trí bình đẳng, vì bình đẳng là điều kiện để có sự tự nguyện một cách thực sự.
Còn thiện chí, hợp tác, trung thực, ngay thẳng là những đòi hỏi không thể thiếu trong giao kết, thực hiện những hợp đồng vì khi thiếu đi một dấu hiệu, một yếu tố nào đó, thi quan hệ hợp đồng sẽ bị đặt vào tình trạng khập khiễng.
Giao kết hợp đồng được bắt đầu bằng việc một bên đề nghị với bên kia giao kết hợp đồng và đồng thời thường kèm theo ngay nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời. Trong trường hợp đó, người đề nghị không được thay đổi, mời người thứ ba trong thời hạn chờ trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình.
2. Nguyên tắc giao kết hợp đồng
Nếu như nguyên tắc cơ bản đến Bộ luật Dân sự năm 2015, các nguyên tắc cơ bản này đã được đưa vào thành 1 điều luật (Điều 3) với các khoản luật ngắn gọn, súc tích, rõ ràng. Đây là một trong những thành công của việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự 2015.
Cụ thể là:
Nguyên tắc 1: Nguyên tắc bình đẳng (quy định tại khoản 1, điều 3)
Nội dung của nguyên tắc: Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
Với nguyên tắc trên, Bộ luật Dân sự 2015 thay cụm từ các bên bằng “mọi cá nhân, pháp nhân”, xác định rõ hơn, cụ thể hơn so với Bộ luật Dân sự 2015. Cụm từ “bất kỳ lý do nào” đã bao hàm tất cả các lý do có thể có, bao gồm: dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp…
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận: (quy định tại khoản 2, điều 3), bao hàm nội dung: Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
Trong Bộ luật Dân sự 2015 quy định: mọi cam kết, thỏa thuận này có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên. Đến Bộ luật Dân sự 2015, nguyên tắc này đã thể hiện rõ ràng, rành mạch và dễ hiểu hơn. Đồng thời, nội dung của nguyên tắc này đã bao hàm ý nghĩa của nguyên tắc tôn trọng pháp luật trước đây tại Bộ luật dân sự năm 2015.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực (quy định tại khoản 3, điều 3) với nội dung: Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. Nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự; đồng thời phải thể hiện rõ ý chí của mình làm cơ sở thực hiện những thỏa thuận, cam kết trong mối quan hệ này.
Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (quy định tại khoản 4, điều 3): Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự (quy định tại khoản 5, điều 3): Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. Đây là một trong những quy định bắt buộc làm cơ sở để giải quyết tranh chấp nếu có, đồng thời là một trong những biện pháp buộc các bên phải thực hiện nghiêm túc những thỏa thuận, cam kết trong mối quan hệ dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể pháp luật dân sự.
Bộ luật Dân sự 2015 bãi bỏ quy định: “Nếu không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ dân sự thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định pháp luật”.
Đồng thời, 02 nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp: Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nguyên tắc hòa giải: Trong quan hệ dân sự, việc hoà giải giữa các bên phù hợp với quy định pháp luật được khuyến khích, được Bộ luật Dân sự 2015 chuyển thành chính sách Nhà nước đối với quan hệ dân sự hoàn toàn phù hợp với xu thế hiện nay.
Vì vậy, trong quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 cần tập trung thực hiện đúng các nguyên tắc trên, có như vậy quyền lợi của các chủ thể pháp luật dân sự mới được bảo vệ, làm cơ sở tiền đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trong thời kỳ mới.
ĐIỀU 2.1.2 UNIDROIT (Định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng)
Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận.
Việc quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao kết, hướng dẫn xử sự của các chủ thể trong quá trình giao kết và thiết lập quan hệ hợp đồng hợp pháp.
– Nguyên tắc thứ nhất: Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội
Theo nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng được quyết định mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức nào kể cả Nhà nước được can thiệp, làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể. Tuy nhiên, sự tự do ý chí của các bên chủ thể khi giao kế hợp đồng “không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Tức là sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không được trái với điều cấm của pháp luật và những chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận rộng rãi.
Luật La Mã ghi nhận rằng: “Với tư cách như một cơ sở phát sinh nghĩa vụ, hợp đồng chỉ có thể có nếu các bên ký hợp đồng có chủ ý xác lập các mối liên hệ trách nhiệm”.`
Điều 4 BLDS 2015: nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận
Quyền tự do cam kết, thỏa thuận, trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết thỏa thuận đó không trái đạo đức xã hội
Khoản 1 Điều 389 BLDS 2015
Tụ do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội
Nguyên tắc này được thể hiện trong Khoản 1 điều 11 Luật Thương Mại 2015:
Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các qui định của pháp luật mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập quyền, nghĩa vụ các bên trong hoạt động thương mại và bảo hộ các quyền đó
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 qui định tại điều 1.1 :
Các bên được giao kết hợp đồng và thỏa thuận nội dung hợp đồng
Nguyên tắc của Luật hợp đồng Châu Âu điều 1.02 quy định:
Các bên được tự do giao kết hợp đồng xác định nội dung hợp đồng phụ thuộc vào yêu cầu về thiện chí, công bằng và các quy tắc bắt buộc được thiết lập bởi các nguyên tắc này.
– Nguyên tắc thứ hai: Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng,
Nguyên tắc các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng bình đẳng với nhau cũng là một nguyên tắc cơ bản. Đặc trưng và cơ sở của các quan hệ trao đổi là được thực hiện theo nguyên tắc thỏa thuận ngang giá.
ĐIỀU 1.7 UNIDROIT (Thiện chí và trung thực)
1. Các bên trong hợp đồng phải tuân theo những yêu cầu về thiện chí và trung thực
trong thương mại quốc tế.
2. Các bên trong hợp đồng không được loại trừ hay hạn chế nghĩa vụ này.
1.1.Trình tự giao kết hợp đồng.
Trình tự giao kết hợp đồng dân sự là một quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến rồi đi đến thỏa thuận trong việc cùng nhau xác lập các quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau, xác định từng nội dung cụ thể của hợp đồng.
Quá trình GDDS chính thức được bắt đầu khi các bên đã xác định rõ được nhu cầu giao dịch của mình. Trình tự giao kết hợp đồng thông qua 2 giai đoạn: đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
2.1 Đề nghị giao kết hợp đồng:
Khi một người muốn thiết lập một hợp đồng thì ý muốn đó phải thể hiện ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Như vậy bên đối tác mới có thể biết được ý muốn của họ và mới có thể đi đến việc giao kết một hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu hiện ý chí, muốn bày tỏ cho bên kia ý muốn tham gia giao kết với họ một hợp đồng dân sự.
Một lời đề nghị được coi là đề nghị giao kết hợp đồng thì phải chứa đựng một số yếu tố cơ bản sau:
- Thể hiện rõ được nguyện vọng muốn đi đến giao kết hợp đồng của bên đề nghị.
- Phải có chứa toàn bộ mọi điều kiện cơ bản của hợp đồng.
- Phải xác định rõ bên được đề nghị.
- Yêu cầu về thời hạn trả lời là không bắt buộc: Theo BLDS 2015 còn dự liệu cả trường hợp đề nghị có thời hạn trả lời và đề nghị không có thời hạn trả lời.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao đổi, thỏa thuận hoặc có thể thông qua điện thoại…Ngoài ra, lời đề nghị còn được chuyển giao bằng công văn, giấy tờ…
2.2 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là việc bên được đề nghị chấp nhận lời đề nghị (bên B) và tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đã đề nghị (bên A).
Câu trả lời của bên B không phải trong mọi trường hợp đều được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng. Câu trả lời được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng khi bên B chấp nhận toàn bộ và vô điều kiện các nội dung đề nghị mà bên A đã nêu. Nếu câu trả lời của bên B không đáp ứng được một trong hai yêu cầu đó thì sẽ được coi là lời đề nghị mới và cần có câu trả lời của bên A. Quá trình này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi có được chấp nhận giao kết hợp đồng đúng yêu cầu thì hợp đồng sẽ được coi là giao kết.
Nếu như bên B không trả lời đề nghị thì sự im lặng đó được coi là lời từ chối giao kết hợp đồng.
ĐIỀU 2.1.6 UNIDROIT (Phương thức chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng)
1. Chấp nhận giao kết hợp đồng có thể là một tuyên bố hoặc cách xử sự khác của bên
được đề nghị cho thấy họ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Bản thân sự im lặng hay bất tác vi không có giá trị như một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
2. Việc chấp nhận một đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi dấu hiệu của việc chấp nhận giao kết hợp đồng đến bên đề nghị.
3. Tuy nhiên, nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, các thói quen đã được xác lập giữa các bên hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chỉ ra là mình đã chấp nhận giao kết hợp đồng bằng việc thực hiện một hành vi mà không cần thông báo cho bên đề nghị biết, việc chấp nhận có hiệu lực khi hành vi đó được hoàn thành
3. Hình thức giao kết hợp đồng ?
Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng những hình thức khác nhau: văn bản viết, lời nói hoặc phương tiện khác. Việc trả lời do hai bên thỏa thuận: trả lời ngay hoặc một thời hạn do hai bên ấn định. Khi bên đề nghị có thời hạn ấn định trả lời thì việc chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ có giá trị khi được thực hiện trong thời hạn đó. Nếu sự chấp nhận diễn ra sau thời hạn đó thì được xem như là một đề nghị giao kết mới. Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong trường hợp: khi bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị; bên đề nghị nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay số: 1900.0191 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.