Quy định về thỏa thuận tại phiên tòa phúc thẩm mới nhất!

Trong quá trình phúc thẩm, các đương sự vẫn có quyền thỏa thuận với nhau và được Tòa án công nhận sự thỏa thuận này. Vậy quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm được pháp luật nước ta quy định cụ thể thế nào? Bài viết dưới đây của Luật LVN Group sẽ đi vào nghiên cứu các quy định liên quan để giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Quy định về thỏa thuận tại phiên tòa phúc thẩm mới nhất!

1. Phúc thẩm là gì?

Phúc thẩm là Xét lại vụ án, quyết định đã được tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm nhưng không có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo hoặc kháng nghị.

Là một hoạt động tố tụng trong đó Tòa án cấp trên tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định do Tòa án cấp sơ thẩm xử mà bị kháng cáo, kháng nghị.

2. Tòa phúc thẩm là gì?

Tòa án phúc thẩm là Tòa án có thẩm quyền xét xử lại các bản án sơ thẩm do Tòa án sơ thẩm đã xử nhưng bị kháng nghị, bị chống án đúng trình tự, thủ tục, quyền hạn do luật định. Theo quy định của Luật tố tụng hình sự hiện hành của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các tòa phúc thẩm của Việt Nam gồm có:

– Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu khi xét xử lại những bản án của Tòa án nhân dân cấp huyện Tòa án quân sự khu vực

– Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương khi xét xử lại những bản án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu.

3. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm

3.1. Nguyên tắc thỏa thuận

Theo khoản 1 Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự được quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự và phải dựa trên nguyên tắc sau:

  • Các bên tự nguyện;
  • Không vi phạm điều cấm của luật;
  • Không trái đạo đức xã hội;
  • Các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc chịu án phí sơ thẩm, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định theo hướng dẫn của pháp luật.

3.2. Thủ tục công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

Trong thủ tục bắt đầu xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm thì một thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.

Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án được không.

3.3. Hệ quả của việc tự thỏa thuận thành của các đương sự

Sau khi tự thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án dân sự, tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận các đương sự.

4. Thỏa thuận của đương sự là một quyền tự định đoạt

Theo đó, Điều 3 (Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự) Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:

“Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dẫn sự. Trong đó, sự thỏa thuận của đương sự và yêu cầu công nhận sự thỏa thuận này có thể được thực hiện dưới cách thức một việc dân sự trên cơ sở đương sự tự định đoạt việc “Yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án” – Khoản 7 Điều 27 (Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án) Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Khi đó, thỏa thuận này được hiểu là đương sự đã thực hiện quyền tự định đoạt trước khi có bất kỳ Đơn khởi kiện hoặc yêu cầu nào gửi cho Tòa án có thẩm quyền để giải quyết vụ việc dân sự.

“Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện… Ở đây, ngay cả khi xảy ra tranh chấp yêu cầu tới Tòa án để giải quyết theo sự điều hành của uỷ quyền Tòa án trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì quyền tự định đoạt của đương sự vẫn không bị khước từ và các đương sự vẫn có thể thực hiện bình thường.

5. Tòa án – Chủ thể được Nhà nước trao quyền để thực hiện việc công nhận sự thỏa thuận của đương sự

Khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án, có rất nhiều chủ thể khác nhau – Tòa án, Viện kiểm sát và các chủ thể khác tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác (ví dụ: Luật sư Người được ủy quyền hợp pháp khác… hoặc chủ thể hỗ trợ Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Việc thỏa thuận của đương sự có thể do các đương sự tự thỏa thuận với nhau hoặc do một bên thứ ba (uỷ quyền của Tòa án hoặc bên thứ ba khác) thực hiện hòa giải thì việc công nhận sự thỏa thuận của đương sự phải được thực hiện thông qua Tòa án để đảm bảo giá trị pháp lý và tính ràng buộc cao hơn. Căn cứ Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là đơn vị xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền tư pháp” – Theo đó, Tòa án là đơn vị có thẩm quyền xét xử các vụ việc bao gồm vụ việc dân sự. Do đó, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự thì khi đó Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử (tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng của vụ việc dân sự) sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự.

6. Thỏa thuận được công nhận của đương sự phải xuất phát từ ý chỉ tự nguyện, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội

Xét về mặt nội dung, thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp này cũng mang vai trò như một giao dịch dân sự. Đương sự là các chủ thể chính trong quan hệ pháp luật này, do đó chỉ đương sự mới có quyền tự thực hiện thông qua hành vi tố tụng của mình để thương lượng, thỏa thuận với nhau và hoặc thông qua sự hỗ trợ của bên thứ ba (bao gồm cả Tòa án) để thống nhất thỏa thuận giải quyết vụ việc. Do đó, theo quan điểm của chuyên gia, khi xem xét hiệu lực của một thỏa thuận dân sự chúng ta cũng cần xem xét trên khía cạnh hiệu lực của một giao dịch dân sự.

 

 

Cùng với đó, bám sát với tinh thần của Hiến pháp mà cụ thể là Khoản 4 Điều 15 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi nhận: “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” Ở đây, yếu tố cần đặc biệt được chú trọng đến đó là việc thỏa thuận giữa các đương sự chỉ đạt được và chỉ được Tòa án công nhận trên cơ sở thương lượng một cách tự nguyện, trung thực, hợp lý, hợp tinh và không một ai với bất kỳ một cách thức nào có thể lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép đương sự trong việc đi tới thỏa thuận này.

7. Có thể được tiến hành vào bất cứ thời gian nào trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự

Một thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự của đương sự có thể được thực hiện trước cả khi có sự can thiệp của Tòa án, sau đó các bên mới tiến hành yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận; hoặc ngay cả khi có tranh chấp xảy ra và một trong các bên có Đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc dân sự thì khi đó căn cứ Khoản 2 Điều 5 (Quyền quyết định và tự do định đoạt của đương sự) Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện…”. Nội dung quy định này phản ảnh quyền tự định đoạt của đương sự được thực hiện ở bất kỳ thời gian nào trong quá trình tố tụng. Do đó có thể hiểu, trong một vụ án dân sự sự thỏa thuận của đương sự có thể được thực hiện trước khi mở phiên tòa (sơ thẩm, phúc thẩm) hoặc ngay cả khi Tòa án xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.

Liên quan đến vấn đề hòa giải của Tòa án và công nhận sự thỏa thuận của đương sự theo hướng dẫn của pháp luật Việt Nam, nếu việc thỏa thuận của các đương sự đạt được do Tòa án tiến hành thì việc công nhận sự thỏa thuận của đương sự chỉ được thực hiện trước thời gian mở phiên tòa sơ thẩm. Bởi vì, xuất phát từ đặc thù xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu đối với vụ án dân sự nên pháp luật quy định Tòa án phải có trách nhiệm hòa giải, giúp các bên hiểu rõ hơn quan hệ pháp luật đang tranh chấp và các quy định khác có liên quan để thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, qua đó tránh được tình trạng khiếu kiện kéo dài, giảm thiểu chi phí cho các bên tham gia tố tụng cũng như tăng hiệu quả của công tác xét xử cả về mặt thời gian và chất lượng. Ở các giai đoạn sau của quá trình tố tụng, vì lý do các đương sự đã được Tòa án tổ chức hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm nhưng không thành nên sau đó Tòa án sẽ không tiến hành hòa giải nữa mà việc quyết định có đi tới thỏa thuận được không hoàn toàn lệ thuộc việc thực thi quyền tự định đoạt của các bên liên quan.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com