Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về hành vi thỏa thuận an định giá hàng hóa, dịch vụ

Thoả thuận ấn định giá là một trong những dạng thoả thuận hạn chế cạnh tranh phổ biến. Trong nội dung trình bày này, cùng Luật LVN Group nghiên cứu về Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về hành vi thỏa thuận an định giá hàng hóa, dịch vụ ngay sau đây !.

1. Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp

Thoả thuận ấn định giá là một trong những dạng thoả thuận hạn chế cạnh tranh phổ biến. Các thoả thuận này có đặc điểm chung là thông qua thoả thuận, các bên đã loại bỏ cạnh tranh về giá giữa các bên tham gia thoả thuận thông qua việc xác lập một mức giá chung hoặc thông qua các cách thức ấn định giá gián tiếp.

Theo điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh 2004 (Nghị định số 116/2005/NĐ-CP) thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp là việc thống nhất cùng hành động dưới một trong các cách thức sau đây:

  1. Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng.
  2. Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể.
  3. Áp dụng công thức tính giá chung.
  4. Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan.
  5. Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất.
  6. Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng.
  7. Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận.
  8. Sử dụng mức giá thống nhất tại thời gian các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.

Nhìn vào bản chất của các thoả thuận được liệt kê trong điều 14 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, có thể chia thoả thuận ấn định giá thành hai nhóm là: nhóm thỏa thuận ấn định giá trực tiếp và nhóm thỏa thuận ấn định giá gián tiếp.

 Thỏa thuận ấn định giá trực tiếp

Thỏa thuận ấn định giá trực tiếp là các thỏa thuận thống nhất hành động giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm loại bỏ cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Đặc trưng cần thiết của các thỏa thuận này là thông qua thỏa thuận, các bên đã trực tiếp xác lập một mức giá chung, qua đó loại bỏ khả năng lựa chọn giá của khách hàng, nhằm mục đích gia tăng lợi nhuận.

Các hành vi thỏa thuận ấn định giá trực tiếp bao gồm:

  1. Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng.
  2. Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể.
  • Áp dụng công thức tính giá chung.
  1. Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan.
  2. Sử dụng mức giá thống nhất tại thời gian các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.

Trong đó, thoả thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng là thoả thuận điển hình cho tính chất trực tiếp của thỏa thuận ấn định giá. Theo đó, các doanh nghiệp tiến hành thỏa thuận ấn định mức giá thống nhất đối với khách hàng. Sự khác nhau giữa thỏa thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng và thoả thuận tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể đó là: Nếu thoả thuận thống nhất mức giá là thoả thuận hướng đến việc ổn định ở một mức giá thì thoả thuận tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể hướng đến việc thay đổi giá. Nhưng sự thay đổi giá này phải mang tính thống nhất, qua đó nhằm loại bỏ phản ứng không cần thiết ảnh hưởng đến khả năng gia tăng lợi nhuận của nhóm thỏa thuận.

Bản chất bóc lột khách hàng trong thoả thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng thể hiện rõ nét trong tình huống thỏa thuận ấn định giá của 19 doanh nghiệp bảo hiểm của Việt Nam năm 2008. Căn cứ, ngày 15 tháng 9 năm 2008, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đã tổ chức Hội nghị các Tổng giám đốc Phi nhân thọ lần thứ VI. Tại hội nghị này, 15 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đã kí bản thoả thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới và điều khoản phí bảo hiểm vật chất xe ô tô (Bản Thoả thuận). Ngày 18 tháng 9 năm 2008, thêm 4 doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã kí kết Bản Thoả thuận, nâng số doanh nghiệp tham gia vào thoả thuận này là 19 doanh nghiệp.

Theo Bản thoả thuận, 19 doanh nghiệp bảo hiểm đã thống nhất áp dụng công thức tính phí chung với các tỷ lệ tính phí bảo hiểm cụ thể để từ đó triệt tiêu cạnh tranh về mức phí bảo hiểm giữa các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thoả thuận. Căn cứ, mức phí bảo hiểm vật chất xe ô tô 1 năm (chưa bao gồm VAT), theo các điều khoản chuẩn được tính như sau:

Trong đó: Phí BH là Phí bảo hiểm, STBH là số tiền bảo hiểm.

Trong khi đó, thoả thuận tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể được coi là một thoả thuận mang tính linh hoạt. Thoả thuận này bao gồm hai lựa chọn: hoặc là tăng giá hoặc là giảm giá. Đặc biệt trong thoả thuận này không chỉ có tăng giá bán mà còn bao hàm cả việc giảm giá ở mức cụ thể. Lựa chọn việc tăng giá hay giảm giá nhưng vẫn đáp ứng cho mục tiêu lợi nhuận của các bên tham gia thoả thuận tăng, như trên đã phân tích liên quan đến hệ số co giãn về cầu. Thoạt nhìn, thoả thuận giảm giá sẽ không mang tính bóc lột.

Cùng là thỏa thuận giảm giá, nhưng thỏa thuận giảm giá ở mức cụ thể theo Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP và thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh theo Khoản 6 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 (sau đây gọi tắt là thoả thuận ngăn cản) và thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận theo Khoản 7 của Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 (sau đây gọi tắt là thoả thuận loại bỏ) là hoàn toàn khác nhau xét về bản chất kinh tế. Căn cứ, theo qui định tại Khoản 6 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 thoả thuận ngăn cản được chia thành hai nhóm như sau:

  1. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các cách thức sau đây:
    1. Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận;
    2. Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị trường liên quan.
    3. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các cách thức sau đây:
  2. Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp này;
  3. Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.

Theo qui định tại Khoản 7 của Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận và cùng hành động dưới cách thức quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 19 của Nghị định này hoặc mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường liên quan.

Mặc dù Nghị định số 116/2005/NĐ-CP không hướng dẫn cụ thể cách thức chống và/hoặc loại bỏ giá, nhưng về mặt logic, bản chất của việc ngăn chặn hoặc loại bỏ giá phải là mức giá phải thấp hơn giá thị trường hoặc thậm chí thấp hơn. hơn giá thị trường.chi phí. Bản chất của hai loại thỏa thuận này là tạo ra sự cạnh tranh về giá, từ đó gây tổn hại cho các công ty cạnh tranh, cản trở các công ty này mở rộng thị trường, phát triển kinh doanh và nặng nề hơn là buộc phải rút lui khỏi thị trường.

Nhóm thỏa thuận thứ hai áp dụng một công thức định giá chung và duy trì một tỷ lệ cố định trong giá của sản phẩm có liên quan, khác với hai thỏa thuận trên ở chỗ nó liên quan đến các khía cạnh kinh tế. Các khía cạnh kinh tế của cả hai thỏa thuận áp dụng công thức định giá chung và duy trì tỷ lệ phần trăm cố định của giá sản phẩm liên quan đến việc cá nhân hóa sản phẩm và sự khác biệt trong chi phí sản xuất sản phẩm. Cá nhân hóa sản phẩm được thừa nhận, mặc dù trong trường hợp này, công ty được đề cập được xác định ngay từ đầu là ở trong cùng một thị trường liên quan, sản phẩm mà công ty quan tâm. Các doanh nghiệp thương mại phải có thể thay thế cho nhau về đặc điểm, công dụng và giá cả.

Tuy nhiên, các quyết định thay thế như vậy chỉ là gần đúng. Để cạnh tranh, các nhà sản xuất luôn cố gắng cá nhân hóa sản phẩm của mình. Chính những điểm khác biệt nhất định này khiến cho một hãng có thể có sự khác biệt về giá so với các hãng khác kinh doanh cùng loại sản phẩm trên thị trường. Đồng thời, chi phí sản xuất của doanh nghiệp cũng sẽ khác nhau. Chi phí sản xuất là toàn bộ giá trị mà người bán phải trả để sản xuất hàng hóa. Chi phí sản xuất trung bình của mỗi nhà sản xuất sẽ phụ thuộc vào công nghệ mà nhà sản xuất có và chi phí thuê và mua các yếu tố sản xuất như lao động và nguyên vật liệu.

Ở mỗi nhà sản xuất, các yếu tố này là khác nhau, dẫn đến chi phí sản xuất của nhà sản xuất là khác nhau. Do chi phí sản xuất khác nhau nên giá bán trên thị trường liên quan sẽ khác nhau. Vì vậy, nếu thỏa thuận ấn định giá không tính đến yếu tố này, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng xung đột lẫn nhau về phân chia lợi ích. Vì lý do này, Herbert Hovenkamp tin rằng tính đồng nhất của sản phẩm hoặc các tiêu chuẩn sản phẩm thống nhất là một trong những điều kiện thuận lợi cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Vì vậy, dưới góc độ của các thương nhân tham gia thỏa thuận, họ cũng sẽ có những thay đổi để thỏa thuận độc quyền về giá dễ thực hiện hơn và mang lại nhiều lợi ích cho các thương nhân tham gia. Do đó, hành động áp dụng một công thức định giá chung để duy trì một tỷ lệ cố định trong giá của các sản phẩm liên quan nhằm giải thích cho những khác biệt này. Với việc không xác định giá mà chỉ xác định công thức tính giá hoặc duy trì thỏa thuận tỷ giá cố định, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận không làm thay đổi quan hệ giá đã được hai bên thiết lập trước đó trên thị trường liên quan mà chỉ làm tăng giá bán của hai bên. nhằm thu được lợi nhuận cao hơn.một tỷ trọng.

Thỏa thuận giá gián tiếp

Thỏa thuận giá gián tiếp được hiểu là thỏa thuận thống nhất hành vi của các doanh nghiệp cạnh tranh trên cùng một thị trường liên quan, liên quan đến các yếu tố bổ sung cho nhau trong giá hàng hóa, dịch vụ, qua đó tác động của các yếu tố này tác động đến giá áp dụng cho khách hàng, nhà phân phối, nhằm tăng lợi nhuận.

Thỏa thuận định giá gián tiếp có cách thức không giảm giá hoặc giảm giá theo tỷ lệ cố định, trong đó tín dụng được gửi tới cho khách hàng và không giảm giá nào được đưa ra mà không thông báo cho các thành viên khác của thỏa thuận.

Bản chất của yếu tố “chiết khấu” và “hạn mức tín dụng” của khách hàng được coi là yếu tố bổ trợ hoặc liên quan đến giá cả hàng hóa, dịch vụ. Các biện pháp giảm giá hoặc hạn mức tín dụng cho khách hàng đặc biệt hữu ích khi thông tin về giá cả hàng hóa được công khai. Doanh nghiệp khó có thể hạ, tăng giá cục bộ mà không ảnh hưởng đến nơi khác. Vì vậy, chính sách giảm giá được hiểu là giảm giá theo giá công bố.

Thông thường, giảm giá xảy ra trong mối quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối. Dưới góc độ của chuỗi sản xuất, hàng hóa đến tay người tiêu dùng sẽ trải qua các giai đoạn: sản xuất – lưu thông – tiêu dùng cuối cùng. Chi phí phân phối được đưa vào như một trong những chi phí sản xuất.

Vì vậy, bằng việc áp dụng được không áp dụng chiết khấu, doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí. Vì vậy, trong khi giá mặt hàng không đổi (áp dụng cho người dùng cuối) thì lợi ích của khách hàng bị ảnh hưởng gián tiếp do áp dụng được không áp dụng chính sách giảm giá. Giá thực sự được trả bởi khách hàng sẽ được áp dụng.

Đồng thời, cho khách hàng hạn mức tín dụng có thể hiểu là tạo cho khách hàng một số tiền nhất định để ưu đãi hành vi mua hàng. Nói một cách đơn giản, khi người mua mua một số lượng/giá trị nhất định của một mặt hàng, họ sẽ trì hoãn việc thanh toán trong một khoảng thời gian. Khoản thanh toán trả chậm này có thể áp dụng cho toàn bộ lô hàng hoặc cho một phần lô hàng, tùy thuộc vào các chính sách mà doanh nghiệp muốn áp dụng cho khách hàng của mình.

Tín dụng là một loại chi phí sản xuất. Mua hàng bị trì hoãn là một động lực tài chính Đối với khách hàng. Vì vậy, ngay cả khi không có chiết khấu, nhận được hạn mức tín dụng là một đặc quyền được khách hàng yêu thích.

Theo hướng dẫn của Điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, thỏa thuận cuối cùng trong nhóm thỏa thuận ấn định giá là thỏa thuận không giảm giá mà không thông báo cho các thành viên khác của thỏa thuận. Theo đó, thương nhân đồng ý giảm giá chỉ thực hiện khi có thông báo trước cho các thương nhân khác trong thỏa thuận. Bản chất của giao thức là trao đổi thông tin về giá.

Điều này bắt nguồn từ đặc thù của các thỏa thuận giá cố định, thường luôn được bán với giá cao hơn giá thị trường. “Có hai điều đúng khi một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được ký kết. Một là vì thỏa thuận luôn được thiết kế để cắt giảm sản lượng, nên công ty sẽ luôn bán ít hơn so với trước khi thỏa thuận, và thậm chí có thể thấp hơn năng lực sản xuất của chính công ty Thứ hai, giá bán thỏa thuận luôn mang lại lợi nhuận cao.

Khi đó, thương nhân sẽ có động cơ bán hạ giá và bán nhiều hơn, từ đó thu được lợi nhuận cao hơn. Bản chất của hành vi trong trường hợp này là hành vi phản bội thỏa thuận, khi doanh nghiệp phản bội bán với giá thấp sẽ thu lợi trên phần lỗ của doanh nghiệp khác. Để giải quyết mâu thuẫn này, giải pháp là thương nhân có quyền giảm giá, nhưng điều kiện là các thương nhân còn lại trong thỏa thuận phải biết trước quyết định giảm giá. Do đó, sẽ tránh được tổn hại cho các công ty còn lại và hành vi giá nhất cửa hàng giữa các công ty sẽ được đảm bảo.

So với Luật Cạnh tranh 2004, Luật Cạnh tranh 2018 đưa ra những thay đổi liên quan đến các thỏa thuận liên quan đến việc ấn định giá trực tiếp hoặc gián tiếp đối với hàng hóa và dịch vụ. Do đó, có hai thay đổi cần thiết đối với luật cạnh tranh 2018. Thay đổi thứ nhất, thỏa thuận ấn định giá không chỉ là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan mà còn là sự thỏa thuận giữa các doanh nghiệp hoạt động ở các khâu khác nhau trên cùng một thị trường về chuỗi sản xuất, lưu thông, cung ứng của một loại hàng hóa nhất định. hàng hóa hoặc dịch vụ.giao thức. (Điều 12(1, 4) Luật Cạnh tranh 2018). Thứ hai, việc doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ trên cùng một thị trường liên quan, nhà lập pháp coi đó là thỏa thuận trái pháp luật và nếu trường hợp nghiêm trọng thì nghiêm cấm thỏa thuận đó bất kể điều kiện thị trường thế nào. Yếu tố cổ phiếu trong Luật Cạnh tranh 2004.

2. Thỏa thuận sử dụng giá nhằm mục đích củng cố vị trí trên thị trường liên quan

Mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp là tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, từ quan điểm cấu trúc thị trường, các công ty chỉ có thể đạt được điều này nếu có đủ các điều kiện cần thiết. Trong một thị trường có nhiều thương nhân, áp lực cạnh tranh sẽ ngăn cản thương nhân kiếm được lợi nhuận cao như mong đợi. Vì vậy, để phục vụ mục tiêu tăng lợi nhuận trong dài hạn, trong một số trường hợp, các doanh nghiệp sẽ phải thực hiện các hành động ngăn cản các doanh nghiệp khác tham gia thị trường, phát triển kinh doanh hoặc loại bỏ các đối thủ cạnh tranh khỏi thị trường. Về lý thuyết, các công ty có hai lựa chọn để ngăn chặn gia nhập, mở rộng kinh doanh hoặc loại bỏ các công ty khác khỏi thị trường bằng cách thực hiện riêng lẻ hoặc đồng thời: (i) chiến lược bán tháo; và (ii) chiến lược tẩy chay.

Dưới góc độ lý thuyết về giá, hợp đồng mua bán nhằm củng cố vị thế của mình trên thị trường liên quan có thể hiểu là thỏa thuận của một công ty nhằm ngăn cản các công ty khác mở rộng quy mô kinh doanh, gia nhập hoặc loại trừ đối thủ cạnh tranh bằng cách bán với giá thấp. thị trường liên quan, qua đó củng cố hoặc mở rộng thị phần của mình trên thị trường liên quan. Do đó, giá sử dụng của thỏa thuận nhằm mục đích củng cố vị thế trên thị trường liên quan có thể được nhận biết thông qua 3 dấu hiệu: Thứ nhất, chủ thể của thỏa thuận là một doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan. Thứ hai là một công cụ được người bán sử dụng để thương lượng giá thấp để những người bán khác không thể kiếm được lợi nhuận đủ lớn để mở rộng quy mô, không đủ hấp dẫn để tham gia thị trường hoặc có tính cạnh tranh cao. Thay vì chạy theo thua lỗ trong thời gian dài, phải rút lui khỏi thị trường. Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia là để củng cố vị trí hiện có của mình khi đứng trước nguy cơ bị mất thị phần bởi các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường liên quan hoặc sự gia nhập của các doanh nghiệp mới vào thị trường, hoặc để tăng lợi nhuận bằng cách loại bỏ đối thủ cạnh tranh

3. Thỏa thuận sử dụng giá nhằm mục đích ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới

Thoả thuận sử dụng giá nhằm mục đích ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới được hiểu là thỏa thuận thống nhất hành động giữa các đối thủ cạnh tranh, thông qua việc giảm giá nhằm mục đích ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới. Theo qui định tại Khoản 1 Điều 19 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các cách thức sau đây:

  1. Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận;
  2. Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị trường liên quan.

Thỏa thuận sử dụng giá nhằm mục đích ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh

Thoả thuận sử dụng giá nhằm mục đích ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh được hiểu là hành vi thỏa thuận thống nhất hành động giữa các doanh nghiệp đối thủ trên cùng thị trường liên quan, bằng cách sử dụng chiến lược bán hàng giá thấp, làm cho doanh nghiệp không phải là một bên trong thỏa thuận không thể phát triển hoặc mở rộng hoạt động động kinh doanh.

Theo qui định tại Khoản 2 Điều 19 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP thì thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các cách thức sau đây:

  1. Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp này;
  2. Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.

Theo qui định tại Điều 19 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, hai thoả thuận ngăn cản việc gia nhập thị trường và thoả thuận ngăn cản doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh, có đối tượng khác nhau. Nếu như trong thoả thuận ngăn cản việc gia nhập thị trường đối tượng là doanh nghiệp đối thủ tiềm năng, chưa được thành lập hoặc đã được thành lập nhưng chưa hoạt động trong thị trường liên quan thì đối tượng trong thoả thuận ngăn cản doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh là các doanh nghiệp đối thủ đang hoạt động trên cùng thị trường. Tuy vậy, nhìn từ góc độ chiến lược sử dụng, theo qui định của Điều 19 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP thì cả hai thoả thuận này đều sử dụng một trong hai dạng hành vi (i) Tẩy chay hoặc (ii) Bán hàng giá thấp.

Nhìn từ góc độ giá, mức giá được ấn định phải là mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị trường liên quan hoặc với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.

Thỏa thuận sử dụng giá nhằm mục đích loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận

Các TTSDG nhằm mục đích loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận được hiểu là thỏa thuận thống nhất hành động giữa các doanh nghiệp đối thủ trên cùng thị trường liên quan, bằng cách sử dụng chiến lược bán hàng giá thấp, nhằm mục đích loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường liên quan.

Theo qui định tại Điều 20 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP thì thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận và cùng hành động dưới cách thức quy định tại Điểm a Khoản 1 và Khoản 2 Điều 19 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP hoặc mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường liên quan. Từ qui định này, có vài điều cần làm rõ:

Thứ nhất: Đối tượng của thoả thuận là doanh nghiệp đối thủ đã tồn tại trên thị trường liên quan.

Thứ hai: Chiến lược được sử dụng trong thỏa thuận vẫn là chiến lược tẩy chay và bán hàng giá thấp. Tuy vậy, so với thoả thuận ngăn cản việc phát triển kinh doanh thì thỏa thuận loại bỏ doanh nghiệp khác có mức độ khốc liệt hơn. Chính vì vậy, trong Điều 19 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, thoả thuận ngăn cản chỉ thực hiện một trong hai chiến lược thì trong thoả thuận loại bỏ, doanh nghiệp thực hiện đồng thời cả hai chiến lược tẩy chay và bán hàng giá thấp.

Thứ ba: Mức giá bán trong trường hợp này là mức giá thấp. Mặc dù ba thoả thuận được qui định tại Khoản 1 Điều 19, Khoản 2 Điều 19 và Điều 20 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP đều đề cập đến mức giá “đủ để ngăn cản”, nhưng Luật Cạnh tranh 2004 và Nghị định số 116/2005/NĐ-CP đều không có qui định hoặc hướng dẫn chi tiết hơn cho mức giá này. Xét về khía cạnh lập pháp cách tiếp cận này là rất khác so với cách mà nhà luật áp dụng khi định nghĩa hành vi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Theo đó, Khoản 1 Điều 23 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP qui định trừ những trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là việc bán hàng, cung ứng dịch vụ với mức giá thấp hơn tổng các chi phí dưới đây:

  1. Chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ theo hướng dẫn tại Điều 24 của Nghị định này hoặc giá mua hàng hóa để bán lại;
  2. Chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ theo hướng dẫn tại Điều 25 của Nghị định này.

Luật Cạnh tranh 2018 đối với các thoả thuận sử dụng giá nhằm mục đích củng cố vị trí trên thị trường liên quan cũng theo cách tiếp cận tương tự. Theo đó, Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 cũng lần lượt qui định hai dạng thoả thuận: thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh và thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận.

Trên đây là nội dung về Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về hành vi thỏa thuận an định giá hàng hóa, dịch vụ Luật LVN Group cập nhật được xin gửi đến các bạn đọc, hi vọng với nguồn thông tin này sẽ là nguồn kiến thức hữu ích giúp các bạn hiểu hơn vấn đề trên. Trong quá trình nghiên cứu nếu có vấn đề câu hỏi vui lòng liên hệ công ty Luật LVN Group để được hỗ trợ ngay. Hãy theo dõi website của chúng tôi để nhận được các nội dung trình bày hay về các lĩnh vực khác nữa !.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com