Tuy nhiên có kèm thêm một đều nữa là “Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc”. Vậy đối với trường hợp chị N.A hay đối với trường hợp phổ biến khác, nếu tính như vậy thì không làm sao đủ 12 tháng. Vì trên thực tế người lao động vừa vào làm công ty, ngoài thời gian thử việc thì ngay lập tức sau đó đã tham gia BNTN rồi. Thời gian làm việc thực tế – thời gian tham gia BHTN = 2 tháng thử việc(

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn pháp luật lao động của công ty Luật LVN Group.

Tư vấn về trợ cấp thất nghiệp

Luật sư tư vấn luật lao động gọi: 1900.0191

Trả lời:

Thưa quý khách hàng!

Công ty Luật TNHH LVN GROUP xin gửi tới quý khách hàng lời chào trân trọng và cảm ơn quý khách đã tin tưởng vào dịch vụ do chúng tôi cung cấp. Vấn đề bạn đang vướng mắc chúng tôi xin được tư vấn như sau:

Căn cứ pháp lý: 

– Luật Việc làm 2013

– Bộ luật Lao động 2012

Nội dung trả lời:

Theo quy định của pháp luật thì:“thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc” (Khoản 2 Điều 48 BLLĐ 2012).

Do đó, vì từ khi chị A vào làm chính thức đã được công ty đóng bảo hiểm thất nghiệp nên khi chị A thôi việc (đủ điều kiện để được hưởng trợ cấp thôi việc) công ty sẽ không có trách nhiệm phải trả trợ cấp thôi việc cho chị A nữa mà trách nhiệm này sẽ thuộc về cơ quan bảo hiểm xã hội.

Điều 49 Luật Việc làm 2013 quy định về điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp như sau:

“Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:

1. Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp sau đây:

a) Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật;

b) Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;

2. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật này; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật này;

3. Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này;

4. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:

a) Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;

b) Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên;

c) Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

d) Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù;

đ) Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng;

e) Chết.”

Theo đó, khi đủ điều kiện hưởng chế độ thất nghiệp theo quy định trên thì cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm chi trả bảo hiểm thất nghiệp cho chị A.

Như vậy, với giải thích của công ty chị A và phần tư vấn của chúng tôi đều không sai, chỉ là bạn đã hiểu nhầm phần giải thích đó mà thôi. Trong trường hợp này, nếu đủ điều kiện để được hưởng trợ cấp thấp nghiệp thì chị A sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo đúng quy định của pháp luật nhưng không phải do công ty chị A làm việc chi trả mà là do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà bạn đang quan tâm. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ email [email protected] hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến1900.0191Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng!

BỘ PHẬN TƯ VẤN LUẬT LAO ĐỘNG – CÔNG TY LUẬT LVN GROUP