1. Quy định chung về Đại biểu Quốc hội
Đai biểu Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người uỷ quyền cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, không chỉ uỷ quyền cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn uỷ quyền cho nhân dân cả nước.
Đại biểu Quốc hội có địa vị pháp lí đặc biệt, họ vừa là uỷ quyền chính thức của nhân dân vừa là đại biểu cấu thành đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất; đại biểu quốc hội là cầu nối cần thiết giữa chính quyền nhà nước với nhân dân.
Đại biểu Quốc hội phải là công dân Việt Nam từ đủ 21 tuổi trở lên, có quyển ứng cử, được hiệp thương và đưa vào danh sách ứng cử viên chính thức và được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu; trong cuộc bầu cử Quốc hội theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã được cử trí tín nhiệm bầu làm đại biểu Quốc hội và được Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội xác định đủ tư cách làm đại biểu Quốc hội. Ở Việt Nam hiện nay có đại biểu Quốc hội chuyên trách và đại biểu quốc hội không chuyên trách (Xt. Đại biểu Quốc hội chuyên trách; Đại biểu quốc hội không chuyên trách).
Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra bằng tổng tuyển cử tự do. Đó là những đại biểu chân chính của nhân dân. Các đại biểu Quốc hội là những người được bầu ra để thay mặt nhân dân ở đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất. Các đại biểu Quốc hội nước ta theo tinh thần của Lênin là những người:
“Tự mình công tác, tự mình áp dụng những luật pháp của mình, tự mình kiểm tra lẩy những tác dụng của luật pháp ẩy, tự mình chịu trách nhiệm trước cử tri của mình”.
Đại biểu Quốc hội có địa vị pháp lý đặc biệt. Đó là người uỷ quyền của nhân dân đồng thời là đại biểu cấu thành đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất. Đại biểu Quốc hội là cầu nối cần thiết giữa chính quyền nhà nước với nhân dân. Đại biểu Quốc hội vừa chịu trách nhiệm trước cử tri, vừa chịu trách nhiệm trước đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất. Đại biểu Quốc hội là người uỷ quyền cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, không chỉ uỷ quyền cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn uỷ quyền cho nhân dân cả nước; là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội. Vì vậy, trong khi làm nhiệm vụ, đại biểu Quốc hội phải xuất phát từ lợi ích chung của cả nước đồng thời cũng phải quan tâm thích đáng đến lợi ích của địa phương đã bầu ra mình, phải căn cứ vào pháp luật của Nhà nước và những quy định của chính quyền nhà nước ở địa phương.
Địa vị pháp lý đặc biệt của đại biểu Quốc hội được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, bao gồm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cách thức hoạt động của đại biểu Quốc hội.
2. Khái niệm về đoàn đại biểu quốc hội
Đoàn đại biểu Quốc hội (Đoàn ĐBQH) là một cách thức tổ chức đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta. Hình thức tổ chức Đoàn ĐBQH ra đời ngay từ kỳ họp thứ ba của Quốc hội khoá I và tồn tại từ đó cho đến nay. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Đoàn ĐBQH hợp thành bởi các ĐBQH được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương, do đó, theo chúng tôi, không nên coi Đoàn ĐBQH là một đơn vị của Quốc hội được không phải là một cấp tổ chức trong Quốc hội, nhưng thực tiễn chưa phải mọi ý kiến đã thống nhất trong việc phân biệt Đoàn ĐBQH có phải đơn vị hay tổ chức độc lập trong Quốc hội, cũng như trong việc nhìn nhận khách quan vị trí, vai trò và chức năng của Đoàn ĐBQH.
3. Sự hình thành và phát triển chế định Đoàn ĐBQH qua các thời kỳ
Tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khoá I, Đoàn ĐBQH đã được hình thành theo các đơn vị hành chính khu hoặc liên khu để ĐBQH được bầu trong một đơn vị hành chính liên hệ với Đoàn Chủ tịch kỳ họp hoặc trao đổi ý kiến trong nhóm về những vấn đề liên quan đến kỳ họp, làm cho kỳ họp Quốc hội được tiến hành thuận lợi. Mục đích ban đầu khi thành lập Đoàn ĐBQH là để phục vụ hoạt động Quốc hội được tốt hơn trong kỳ họp, nhưng quá trình phát triển cho thấy, Đoàn ĐBQH không chỉ tồn tại và phát huy tác dụng trong kỳ họp mà còn tồn tại và phát huy tác dụng ở ngoài kỳ họp. Do Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, ĐBQH đa số là kiêm nhiệm, công tác và sinh sống chủ yếu tại địa phương nên cách thức tổ chức Đoàn ĐBQH tỏ ra rất thích hợp để giữa hai kỳ họp, ĐBQH ở địa phương có thể thông qua Đoàn để liên hệ với lãnh đạo Quốc hội ở trung ương, liên hệ với các đại biểu trong cùng một địa phương và liên hệ với cử tri tại địa phương mình. Đây chính là những lý do khách quan dẫn đến Đoàn ĐBQH vẫn tồn tại và phát triển song song với các cơ cấu, tổ chức khác của Quốc hội.
Theo quy định của Hiến pháp, cơ cấu tổ chức của Quốc hội gồm Quốc hội, các đơn vị của Quốc hội và ĐBQH. Tuy nhiên, các luật về tổ chức Quốc hội theo các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 đều có những quy định về vị trí, vai trò và chức năng của Đoàn ĐBQH. Căn cứ là:
Luật Tổ chức Quốc hội năm 1960 quy định: “ĐBQH có thể họp thành các đoàn đại biểu địa phương theo đơn vị tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương. Trong mỗi kỳ họp của Quốc hội, các Đoàn ĐBQH trao đổi ý kiến về những vấn đề cần thiết của kỳ họp. Giữa hai kỳ họp Quốc hội, các Đoàn ĐBQH giữ mối quan hệ với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội”.
Với nội dung này, Đoàn ĐBQH tuy được xác định trong cơ cấu, tổ chức của Quốc hội nhưng không phải là một cơ cấu, tổ chức mang tính chất bắt buộc; nội dung hoạt động của Đoàn chủ yếu là trao đổi những vấn đề cần thiết trong kỳ họp. Theo Luật Tổ chức Quốc hội năm1960, các Đoàn ĐBQH còn có quyền giới thiệu người ra ứng cử chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các ủy viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để Quốc hội bầu.
Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981 quy định: “ĐBQH ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương họp thành Đoàn ĐBQH địa phương và cử ra Trưởng Đoàn. Đoàn ĐBQH tổ chức hoạt động của ĐBQH tại các đơn vị bầu cử. Các Trưởng Đoàn ĐBQH và các ĐBQH giữ quan hệ với Chủ tịch Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Mỗi năm hai lần, các Đoàn ĐBQH thông báo cho Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và Uỷ ban Mặt trận tổ quốc ở địa phương về hoạt động của các ĐBQH ở địa phương”.
Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981 đã mở rộng hơn quyền của Đoàn ĐBQH trong việc giới thiệu các chức danh để Quốc hội bầu: Chủ tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các Uỷ viên Hội đồng Nhà nước; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thư ký và các Uỷ viên của Hội đồng Dân tộc; Chủ nhiệm và các thành viên khác của Uỷ ban thường trực của Quốc hội.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn ĐBQH còn được quy định trong Quy chế về ĐBQH do Quốc hội ban hành. Khác với Luật Tổ chức Quốc hội năm 1960, thì ở thời kỳ này Đoàn ĐBQH được xác định là cách thức tổ chức bắt buộc trong cơ cấu, tổ chức của Quốc hội, nội dung hoạt động của Đoàn chủ yếu là tổ chức hoạt động cho ĐBQH trong thời gian giữa hai kỳ họp, khác với giai đoạn trước chủ yếu tổ chức hoạt động trong kỳ họp, còn ngoài kỳ họp bảo đảm mối liên hệ giữa ĐBQH với lãnh đạo Quốc hội ở trung ương.
Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992
Qua kinh nghiệm của các nhiệm kỳ Quốc hội mà đặc biệt là nhiệm kỳ Quốc hội khoá VIII (1987- 1992) cho thấy, việc tổ chức Đoàn ĐBQH địa phương là cần thiết, đã phát huy tác dụng tích cực trong thực tiễn. Ghi nhận thực tiễn này, Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992 một lần nữa khẳng định lại vị trí của Đoàn ĐBQH, theo đó: “Các ĐBQH được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương hợp thành Đoàn ĐBQH. Đoàn ĐBQH có Trưởng Đoàn, có thể có Phó Trưởng Đoàn để tổ chức hoạt động của Đoàn, giữ mối liên hệ với Chủ tịch Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, đơn vị chính quyền địa phương, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc và các đơn vị, tổ chức khác ở địa phương về các vấn đề liên quan đến hoạt động của ĐBQH. Mỗi Đoàn có thể có từ một đến hai đại biểu công tác theo chế độ chuyên trách”.
Vị trí, vai trò và chức năng của Đoàn ĐBQH còn được quy định cụ thể trong Nội quy kỳ họp Quốc hội và trong Quy chế về hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. So sánh với các quy định của pháp luật qua các thời kỳ về Đoàn ĐBQH chúng tôi thấy:
– Vai trò của Đoàn ĐBQH trong việc giới thiệu bầu các chức danh trong bộ máy nhà nước ở trung ương không được tiếp tục duy trì;
– Từ một chủ thể không bắt buộc, Đoàn ĐBQH là một chủ thể pháp lý bắt buộc trong cơ cấu, tổ chức của Quốc hội, tuy không phải là đơn vị hay một cấp tổ chức trong Quốc hội;
– Điểm mới so với các quy định trước đây là mỗi Đoàn ĐBQH có thể có từ một đến hai ĐBQH hoạt động chuyên trách. Quy định này thể hiện hướng chuyển Quốc hội dần sang chế độ hoạt động thường xuyên, trong đó có bộ phận ĐBQH chuyên trách;
– Quy định của pháp luật qua các thời kỳ có xu hướng dần dần làm cho Đoàn ĐBQH thành một tổ chức có nhiệm vụ, quyền hạn độc lập hoạt động thường xuyên ở địa phương.
4. Nhiệm vụ của Đoàn đại biểu quốc hội
– Phối hợp với Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc, Thường trực Hội Đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở địa phương tổ chức để Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri ;
– Tổ chức việc tiếp công dân của Đại biểu Quốc hội ; tiếp nhận, chuyển đơn, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân mà Đại biểu Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội đã chuyển đến đơn vị, tổ chức có thẩm quyền giải quyết ; mời uỷ quyền Hội Đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở địa phương tham dự các buổi tiếp công dân của Đại biểu Quốc hội; trong trường hợp cần thiết thì mời uỷ quyền của đơn vị hữu quan ở địa phương cùng tham dự để tiếp thu xử lý những vấn đề liên quan;
– Phối hợp với Thường trực Hội đống nhân dân, Ban Thường trực Uỷ ban mặt trận Tổ Quốc ở địa phương tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác theo yêu cầu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
– Tổ chức để Đại biểu Quốc hội thảo luận về dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác, dự kiến chương trình kỳ họp Quốc hội;
– Tổ chức để đại biểu Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật, đấu tranh chống tham nhũng; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của địa phương ; khảo sát tình hình thực tiễn ở địa phương ; góp ý với địa phương về thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh ; khi cần thiết, kết quả giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội được công bố trên các thông tin đại chúng;
– Phân công đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham gia Đoàn công tác, Đoàn giám sát của Uỷ ban thường Vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội;
Tham gia ý kiến về việc giới thiệu đại biểu Quốc hội trong Đoàn ứng cử đại biểu Quốc hội khoá sau; phân công đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham gia Đoàn giám sát về việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá sau, bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội ở địa phương;
– Mỗi năm hai lần, vào giữa năm và cuối năm, báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, và đại biểu Quốc hội, đồng thời thông báo với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
5. Cơ cấu, tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội
Đoàn đại biểu Quốc hội là một mô hình tổ chức đặc thù của Quốc hội Việt Nam; là một tổ chức hợp thành từ các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thực tiễn hoạt động của Quốc hội 75 năm qua cho thấy, tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội là không thể thiếu, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Quốc hội Việt Nam. Hoạt động của Đoàn đại biểu hội Quốc hội không chỉ diễn ra trong kỳ họp mà còn diễn ra khá thường xuyên trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội. Do Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, đa số đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách, công tác và sinh sống ở nhiều địa phương khác nhau nên cách thức tổ chức Đoàn đại biểu Quốc hội là phù hợp để trong thời gian giữa hai kỳ họp, các đại biểu Quốc hội có thể thông qua hoạt động của Đoàn để tiến hành những công việc nhằm thực hiện nhiệm vụ đại biểu, đồng thời cũng có điều kiện để tăng cường, mở rộng mối quan hệ gắn bó thường xuyên với cử tri, Nhân dân nơi đại biểu ứng cử. Đặc điểm nổi bật nhất trong hoạt động của Đoàn đại biểu là cách thức tổ chức, tạo điều kiện, hỗ trợ lẫn nhau giữa các đại biểu trong việc thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm đại biểu.
Cơ cấu tổ chức của Đoàn đại biểu Quốc hội rất đa dạng, bao gồm các đại biểu hoạt động chuyên trách và các đại biểu hoạt động không chuyên trách; các đại biểu hoạt động ở địa phương và các đại biểu hoạt động ở Trung ương; các đại biểu không chuyên trách kiêm nhiệm các chức vụ chủ chốt ở Trung ương và các chức vụ chủ chốt ở địa phương; các đại biểu không chuyên trách là các nhà khoa học, nhà quản lý, chủ doanh nghiệp, nhà hoạt động thực tiễn… với tuổi đời, thế hệ, trình độ, chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm công tác rất đa dạng…
Hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội trong kỳ họp là cầu nối để đại biểu Quốc hội giữ mối liên hệ với Đoàn Chủ tịch kỳ họp; là nơi để các đại biểu Quốc hội trong Đoàn thảo luận, tranh luận về những vấn đề nghị sự liên quan đến nội dung công tác của kỳ họp, nhất là việc thảo luận, tranh luận về các dự thảo luật, nghị quyết, các báo cáo công tác, các đề án, chương trình được trình Quốc hội… Thực tế cho thấy, thông qua việc tham gia hoạt động của Đoàn mà các đại biểu Quốc hội đã nâng cao rất nhiều chất lượng, hiệu quả hoạt động của mình.
Giữa hai kỳ họp Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện việc tổ chức để các đại biểu trong Đoàn tham gia vào công tác xây dựng pháp luật như: thảo luận, cho ý kiến về các dự án luật, các báo cáo và các dự án khác; tổ chức lấy ý kiến cử tri, Nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, các đơn vị, tổ chức, đơn vị hữu quan…; tổ chức khảo sát thực tiễn, hội thảo khoa học. Đoàn đại biểu tổ chức, tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt giám sát; tổ chức cho đại biểu Quốc hội trong Đoàn tiếp dân, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp. Những đặc điểm này trong cơ cấu tổ chức và tính chất hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội là yếu tố ảnh hưởng mang tính quyết định tới việc đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy tham mưu, giúp việc cho Quốc hội nói chung và các Đoàn đại biểu Quốc hội nói riêng.