1. Thành lập Các tổ chức phụ trách bầu cử, đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu
Các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội gồm:
– Hội đồng bầu cử quốc gia ở cấp trung ương;
– Uỷ ban bầu cử ở cấp tỉnh;
– Ban bầu cử ở các đơn vị bầu cử; và
– Tổ bầu cử ở các khu vực bỏ phiếu.
Quá trình chuẩn bị cho một cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, kéo dài khoảng 4 tháng trước ngày bầu cử (Điều 5 luạt bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu HĐND 2015), thường bắt đầu bởi công đoạn thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, xác định đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu. Đây có thể coi là các yếu tố “cơ sở hạ tầng” của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội.
Để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội được diễn ra, không thể thiếu sự hiện diện của các đơn vị trực tiếp tiến hành các hoạt động tổ chức, sắp xếp, bố trí cơ sở vật chất để người dân có thể đi bỏ phiếu. Đó chính là các tổ chức phụ trách bầu cử, bao gồm Hội đồng bầu cử quốc gia, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử:
– Hội đồng bầu cử quốc gia là tổ chức phụ trách bầu cử ở trung ương, do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ cửa hàng xuyến toàn bộ quá trình tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia được trình bày chi tiết trong Chương XVII.
– Uỷ ban bầu cử là tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội ở cấp tỉnh, do ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Nhiệm vụ của Uỷ ban bầu cử là chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
– Ban bầu cử là tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội ở các đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, cũng do ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Nhiệm vụ chính của Ban bầu cử là kiểm tra, đôn đốc, cửa hàng xuyến công tác tổ chức bầu cử trong phạm vi đơn vị bầu cử (Cơ cấu, thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Uỷ ban bầu cử ở tỉnh đối với bầu cử đại biểu Quốc hội được quy định tại Điều 22, 23 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015. cần lưu ý là ngoài Uỷ ban bầu cử ở tỉnh được thành lập để tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội trên địa bàn tinh, còn có Uỷ ban bầu cử ở huyện, Uỷ ban bầu cừ ở xã được thành lập để tổ chức bầu cử các đại biểu Hội đồng nhân dân ở các cấp tương ứng và;
– Tổ bầu cử là tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội ở các đơn vị hành chính – lãnh thổ cấp xã, tức là cấp cơ sở. Vai trò của Tổ bầu cử hết sức cần thiết bởi đây chính là tổ chức trực tiếp bố trí, sắp xếp cơ sở vật chất để người dân trực tiếp đi bầu. Khác với Uỷ ban bầu cử và Ban bầu cử có sự đa dạng giữa bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, ở mỗi đơn vị cấp xã chỉ có một Tổ bầu cử được ủy ban nhân dân cấp xã thành lập sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Tổ bầu cử này tiến hành tổ chức để người dân đi bỏ phiếu bầu cả đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân trên địa bàn (Cơ cấu, thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Tổ bầu cử được quy định tại Điều 25 Luật bâu cử đại biểu Quôc hội và đại biêu Hội đồng nhân dân năm 2015 và Cơ cấu, thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ban bầu cử đối với bầu cử đại biểu Quốc hội được quy định tại Điều 24 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015. cần lưu ý là ngoài Ban bầu cử ờ đon vị bầu cử đối với bầu cử đại biểu Quốc hội còn có Ban bầu cử ở đon vị bầu cử được thành lập để bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp)
Ở Việt Nam, các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội, cũng như các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, đều là các đơn vị lâm thời. Chúng được thành lập chỉ để phục vụ bầu cử và chấm dứt hoạt động khi cuộc bầu cử kết thúc. Do vậy, các tổ chức này không có thành phần nhân sự cố định mà thường gồm những người đến từ các đơn vị chính quyền ở cùng cấp. Không thể phủ nhận rằng đặc điểm này phần nào ảnh hưởng tới tính khách quan của cuộc bầu cử.
Bên cạnh việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, một công việc hết sức cần thiết khác là xác định các đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu. Đây là hai loại đơn vị lãnh thổ được phân chia để phục vụ việc người dân đi bỏ phiếu và xác định kết quả trúng cử.
Quốc hội xác định số lượng đơn vị bầu cử, về thực chất là phân chia lãnh thổ Việt Nam thành các đơn vị bầu cử để bầu đại biểu Quốc hội. Việc xác định đơn vị bầu cử luôn được thực hiện trước mỗi cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và chỉ phục vụ cho cuộc bầu cử đó. Đây là điểm đặc thù của Việt Nam bởi trên thế giới công việc xác định đơn vị bầu cử thường được thực hiện 10 năm một lần và độc lập với các cuộc bầu cử để bảo đảm tính khách quan.
Khác với đơn vị bầu cử được hình thành để xác định kết quả trúng cử, khu vực bỏ phiếu được hình thành để tạo sự thuận tiện cho người dân khi đi bỏ phiếu. Mỗi khu vực bỏ phiếu thường có 1 điểm bỏ phiếu để mọi người đến viết phiếu và bỏ lá phiếu vào thùng phiếu. Mỗi đơn vị cấp xã có nhiều khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân cấp xã xác định với dân số từ khoảng 300 đến 4000 cử tri. Mặt khác, trong lực lượng vũ trang, bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở cai nghiên… có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng không theo địa bàn dân cư.
2. Lập danh sách cử tri và quyền bầu cử
Như đã phân tích, quyền đi bầu cử, là quyền chính trị hết sức cần thiết của công dân. Theo quy định của hiến pháp, quyền này được trao cho tất cả công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên. Tư cách công dân và độ tuổi 18 cũng được coi là hai hạn chế tối thiểu làm nên tính phổ thông của chế độ bầu cử của Việt Nam. Tuy nhiên, theo pháp luật hiện hành, để có thể thực sự đi bầu cử thì công dân còn phải không được rơi vào một số trường hợp sau (Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015; Điều 23 Luật bầu cử đại biêu Quôc hội năm 1997 (sửa đôi, bổ sung năm 2001):
– Đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án;
– Bị kết án tử hình đang trong thời gian thi hành án;
– Đang chấp hành hình phạt tù và không được hưởng án treo;
– Mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của tòa án.
Chỉ khi nào đáp ứng được đủ các điều kiện trên đây thì công dân mới được ghi tên vào danh sách cử tri, được phát thẻ cử tri và chính thức trở thành cử tri để đi bầu cử. Danh sách cử tri do ủy ban nhân dân cấp xã nơi cử tri thường trú hoặc tạm trú lập và được áp dụng chung cho cả bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Tới ngày bầu cử, cử tri đem thẻ của mình tới địa điểm bỏ phiếu, tại đây ban tổ chức sẽ rà soát tên của cử tri trong danh sách và phát phiếu bầu cho cử tri.
Các điều kiện để được ghi tên vào danh sách cử tri trên đây hoàn toàn có khả năng hạn chế việc thực hiện quyền bầu cử của công dân Việt Nam. Không đáp ứng các điều kiện đó, công dân sẽ không được ghi tên vào danh sách cử tri và không được đi bầu cử. Vì vậy, điều cần thiết là các điều kiện này phải thật sự hợp lý để thể hiện được sự cần thiết hạn chế quyền bầu cử. Trong lịch sử hình thành và phát triển cùa chế định bầu cử không phải lúc nào cũng thể hiện được sự họp lý đó. Trước đây, pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội đã từng quy định người đang bị tạm giam thì không được ghi tên vào danh sách cử tri, và do đó không được đi bầu cử.
3. Lập danh sách ứng cử viên và quyền ứng cử
Nhân vật trung tâm thứ hai của mỗi cuộc bầu cử, bên cạnh cử tri, là ứng cử viên. Ở Việt Nam, cũng như các nước khác, không thể có tình trạng cử tri có quyền bầu bất kì người nào cũng được.
Điều đó sẽ dẫn tới việc kết quả bỏ phiếu bị loãng và không có ứng cử viên nào có đủ số phiếu để trúng cử, hệ quả là đơn vị uỷ quyền có thể không thành lập được. Chính vì vậy, trong các cuộc bầu cử đều có công đoạn lập danh sách ứng cử viên, về thực chất là sơ tuyển, hay chọn trước, những người có đủ tiêu chuẩn được bầu để đưa ra người dân lựa chọn chính thức. Việc lập danh sách ứng cử viên luôn bắt đầu từ những người có quyền được ứng cử và kết thúc bằng quy trình, thủ tục sơ tuyển. Tính chính thống của quy trình, thủ tục sơ tuyển là hết sức cần thiết bởi vì ở mức độ nào đó thì quá trình này có tác dụng hạn chế quyền bầu chọn tự do của người dân.
Điều 27 Hiến pháp hiện hành quy định công dân Việt Nam từ đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, để có thể được thực hiện quyền ứng cử của mình, công dân Việt Nam còn phải không thuộc một trong các trường hợp sau (Theo Điều 37 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015):
– Đang bị tước quyền ứng cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực;
– Đang chấp hành hình phạt tù, bản án, quyết định hình sự của Tòa án;
– Đang bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự;
– Đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhưng chưa được xóa án tích;
– Đang bị khởi tố bị can; đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Có thể thấy các điều kiện trên đây khắt khe hơn nhiều so với điều kiện để trở thành cử tri, mục đích là để bảo đảm uy tín tối thiểu của ứng cử viên đại biểu Quốc hội. Mặc dù vậy, các điều kiện ữên cũng mới chỉ là điều kiện cần; cho dù có đáp ứng được hết thì cũng không có nghĩa là chắc chắn trở thảnh ứng cử viên đại biểu Quốc hội.
Ứng cử viên: Công dân Việt Nam, từ đủ 21 tuổi trở lên, không vi phạm điều cấm, có tên trong danh sách ứng cử viên.
Công dân Việt Nam có tên ữong danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội thông qua hai cách thức: được đề cử hoặc tự ứng cử. Dù là bằng cách nào thì người muốn ứng cử đại biểu Quốc hội cũng phải ưải qua một quy trình được giới thiệu, gọi là “Quy trình hiệp thương”. Đây chính là quy trình “sơ tuyển” ứng cử viên hết sức đặc thù của Việt Nam do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì thực hiện và áp dụng chung cho bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải là đơn vị nhà nước mà là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân (Điều 9 hiến pháp năm 2013). Việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì “Quy trình hiệp thương” là để bảo đảm tính nhân dân của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Quy trình hiệp thương được quy định cụ thể tại Mục 2, Chương V Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 và gồm 3 bước, gọi là ba lần hội nghị hiệp thương, tức là các hội nghị triệu tập các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để thảo luận và biểu quyết về các vấn đề liên quan tới việc giới thiệu ứng cử viên đại biểu Quốc hội:
– Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất được tổ chức ở cấp trung ương và cấp tỉnh để thoả thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của đơn vị, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội. Thảo luận tại hội nghị này dựa trên dự kiến trước đó của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về những nội dung tương tự.
Sau khi hội nghị hiệp thương lần thứ nhất đã thống nhất về các nội dung trên thì biên bản hiệp thương được chuyển tới Ủy ban Thường vụ Quốc hội để tiến hành điều chỉnh lần thứ nhất về số lượng, thành phần, cơ cấu đại biểu. Trên cơ sở điều chỉnh này các đơn vị, tổ chức có liên quan lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, tức là thủ tục đề cử người ứng cử đại biểu Quốc hội (Điều 38,39 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, Điều 40, 41, 42 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm2015). Cũng trong khoảng thời gian này, công dân Việt Nam có đủ các điều kiện trên đây có thể nộp hồ sơ tự ứng cử tại Uỷ ban bầu cử của tỉnh nơi mình đang cư trú hoặc công tác thường xuyên. Các hồ sơ đề cử và hồ sơ tự ứng cử sau đó được chuyển tới Mặt trận Tổ quốc ở trung ương và cấp tỉnh để tiến hành hội nghị hiệp thương lần thứ hai. Tại hội nghị này, các tổ chức thành viên Mặt trận Tổ quốc biểu quyết lập danh sách sơ bộ những ứng cử viên đại biểu Quốc hội bao gồm cả người được đề cử và tự ứng cử. Danh sách sơ bộ sau đó được chuyển tới nơi cư trú của các ứng cử viên để lấy ý kiến cử tri, riêng hồ sơ của người tự ứng cử còn được gửi tới nơi công tác để lấy ý kiến. Danh sách sơ bộ cũng được chuyển cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội để đơn vị này điều chỉnh lần thứ hai cơ cấu, thành phần, số lượng người được đề cử (Điều 35,36 Luật bầu cừ đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015).
– Sau khi có ý kiến của cử tri nơi cư trú và điều chỉnh lần thứ hai của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cấp trung uơng và cấp tỉnh tổ chức tiếp hội nghị hiệp thương lần thứ ba để các tổ chức thành viên thông qua danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội. Danh sách này sau đó được chuyển tới Hội đồng bầu cử quốc gia để lập và công bố danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội (sau đây gọi tắt là “danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội”) để đưa ra cho các cử tri bầu chọn. Trong danh sách có tên của từng ứng cử viên và đơn vị bàu cử tương ứng mà ứng cử viên sẽ được bầu.
4. Vận động bầu cử
Sau khi danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội được công bố, các ứng cử viên sẽ đi tiếp xúc cử tri tại đơn vị bầu cử của mình để vận động bầu cử. Một tên gọi khác của “vận động bầu cử” là “tranh cử”. Đây là giai đoạn hết sức cần thiết trong quá trình bầu cử và ngày càng được coi ttọng hơn. Trong giai đoạn này, các ứng cử viên tham gia các hoạt động nhằm thể hiện bản thân cùng với chương trình hành động của minh để qua đó thu hút phiếu bầu của cử tri. Các hoạt động hanh cử cũng hết sức có ý nghĩa đối với cử tri bởi qua đó cử tri hiểu rõ về các ứng cử viên, từ đó làm cơ sở cho sự lựa chọn của mình. Các hoạt động tranh cử được tổ chức và điều chỉnh hợp lý sẽ làm nền tảng cho sự lựa chọn đúng đắn của cử tri. Các hoạt động tranh cử bị hạn chế hoặc quá nghèo nàn có thể dẫn tới cử tri bầu chọn không chính xác, không tìm được người thực sự có năng lực, đạo đức để gánh vác công việc nhà nước. Vấn đề nằm ở chỗ giai đoạn vận động bầu cử cần được điều chỉnh thế nào để vừa bảo đảm sự phong phú trong các hoạt động tranh cử, vừa bảo đảm cử tri có trọn vẹn thông tin với chất lượng tốt về ứng cử viên để tiến hành bầu chọn.
Ở Việt Nam các hoạt động vận động bầu cử đại biểu Quốc hội được điều chỉnh khá chặt chẽ. Theo quy định của pháp luật, giai đoạn vận động bầu cử kéo dài từ ngày công bố danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội cho tới trước thời gian bỏ phiếu 24 giờ, với thời gian khoảng hom 20 ngày. Trong khoảng thời gian đó, ứng cử viên đại biểu Quốc hội chỉ được tiến hành hai loại hoạt động tranh cử (Điều 48, 49, 57 Luật bầu cừ đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015; Xem khoản 4 Điều 57 và Điều 64 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015):
Thứ nhất, tham gia các hội nghị tiếp xúc cử tri do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tô quôc Việt Nam cấp tỉnh chủ trì tổ chức; tại các hội nghị này ứng cử viên trình bày chương trình hành động của mình trước cử tri, trao đổi với cử tri về các vấn đề đặt ra.
Thứ hai, trả lời trên các phưomg tiện thông tin đại chúng khi được phỏng vấn; nội dung trả lời phỏng vấn cũng xoay quanh chưomg trình hành động của ứng cử viên.
Có thể thấy ứng cử viên đại biểu Quốc hội Việt Nam chịu sự hạn chế khá lớn trong việc chủ động tiến hành các hoạt động tranh cử. Cho dù có đủ điều kiện vật chất đi nữa thì các ứng cử viên cũng không được tự tổ chức các sự kiện nhằm quảng bá cho mình mà chỉ có thể tham gia vào các hoạt động do các chủ thể khác chủ trì như đề cập trên đây. Sự hạn chế này cho dù bảo đảm được sự bình đẳng giữa các ứng cử viên khi tiếp xúc cử tri song cũng gây ra những bất cập nhất định, cụ thể là do các hoạt động tiếp xúc cử tri được thực hiện với tần suất ít và quy mô hạn chế nên cử tri tại đom vị bàu cử thường không có đủ thông tin về ứng cử viên để đưa ra sự lựa chọn chính xác.
5. Bỏ phiếu, kiểm phiếu, công bố kết quả và thẩm tra tư cách đại biểu trúng cử
Theo quy định của pháp luật, thời gian của cuộc bỏ phiếu thường bắt đầu từ 7 giờ sáng tới 7 giờ tối, hoặc muộn nhất là 9 giờ tối, của ngày bầu cử. Khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, việc kiểm phiếu sẽ được Tổ bầu cử tiến hành ngay tại phòng bỏ phiếu với sự chứng kiến của hai cử tri không phải thành viên Tổ bầu cử. Trước tiên, Tổ bầu cử sẽ loại các phiếu không hợp lệ theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 74 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 và kiểm phiếu trên cơ sở các phiếu hợp lệ.
Kết quả kiểm phiếu tại phòng bỏ phiếu sau đó được chuyển tới Ban bầu cử của đơn vị bầu cử tương ứng tập họp và xác định kết quả bầu cử. Người trúng cử là người được quá một nửa số phiếu bầu hợp lệ, với điều kiện đã có quá nửa tổng số cử tri trong danh sách đi bầu tại đơn vị bầu cử. Trường hợp số người đạt quá nửa số phiếu hợp lệ nhiều hơn số ghế đại biểu Quốc hội tại đơn vị bầu cử thì những người có số phiếu cao nhất tương ứng với số lượng ghế đại biểu Quốc hội sẽ trúng cử (Điều 78 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dần năm 2015). Vì vậy, ngay tại thời gian tập họp kết quả bỏ phiếu tại Ban bầu cử thì đã có thể biết được ứng cử viên nào trúng cử đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là kết quả chính thức. Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ là đơn vị tập hợp kết quả bầu cử tại tất cả các đem vị bầu cử đại biểu Quốc hội trên cả nước, công bố, thẩm tra và xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Quốc hội. Sau tất cả các công đoạn đó, Hội đồng bầu cử quốc gia cấp giấy chứng nhận đại biểu Quốc hội khóa mới cho người trúng cử. Đến thời gian này, ứng cử viên được bầu mới chính thức trở thành đại biểu Quốc hội khóa mới.