1. Quy định chung về Quốc hội

Nghị viện đã tồn tại từ khi nhà nước tư sản ra đời. Tiếng Anh gọi là Congress. Ở các nước tư sản thực hiện nguyên tắc “tam quyền phân lập”, Quốc hội là đơn vị lập pháp, Quốc hội là đơn vị công tác theo chế độ hội nghị và biểu quyết theo đa số nên Quốc hội còn được gọi là Quốc hội. Quốc hội. Quốc hội của hầu hết các nước tư bản được chia thành hai viện: thượng viện (còn gọi là Thượng viện) và hạ viện (hoặc cả hai viện của quốc hội). Tuy nhiên, cũng có những quốc gia theo hệ thống đơn viện, như Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy…

Quốc hội theo nghĩa Hán và Việt là Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc, còn gọi là Quốc dân đại hội. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam ra đời trên cơ sở tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, tiền thân của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam là Quốc hội Tân triều (8-1945). Kể từ năm 1946, tổng cộng 11 cuộc bầu cử quốc hội đã được tổ chức, và Quốc hội hiện tại là Đại hội thứ 11.

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm.

Quốc hội là đơn vị duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.

Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của thể chế nhà nước, quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.

Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.

Quốc hội có cả chủ quyền quốc gia và chủ quyền phổ biến.

Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1) Xây dựng và sửa đổi hiến pháp, xây dựng và sửa đổi luật, quyết định việc xây dựng luật và các quy định;

2) Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; thảo luận về báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, và Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

3) Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của quốc gia;

4) Quyết định chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ của nhà nước; quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách nhà nước ở trung ương, phê chuẩn dự toán ngân sách nhà nước và quy định, sửa đổi, bãi bỏ các loại thuế;

5) Quyết định chính sách dân tộc, tôn giáo của đất nước;

6) Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và chính quyền địa phương;

7) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội; Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội. Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Đề nghị của Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ; Phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; Bỏ phiếu tín nhiệm người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

8) Quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ, đơn vị ngang bộ của Chính phủ, thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập, giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

9) Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vi phạm Hiến pháp, luật, nghị quyết.

10) Quyết định đại xá;

11) Quyết định các danh hiệu, cấp quốc gia như quân hàm, quân hàm, ngoại giao của Lực lượng vũ trang nhân dân, quy định huân chương, huy chương, danh hiệu vinh dự quốc gia;

12) Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình, quy định tình trạng khẩn cấp và các biện pháp đặc biệt khác để bảo đảm quốc phòng, an ninh;

13) Quyết định đường lối đối ngoại cơ bản, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký. Phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế khác đã ký hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;

14) Quyết định trưng cầu dân ý.

2. Sự ra đời và phát triển Quốc hội Việt Nam

Từ ngày 16 đến 17-8-1945, Đại hội đại biểu toàn quốc gồm 60 đại biểu các tổ chức quần chúng cách mạng họp tại Tân Hà, quyết định nhiều vấn đề cần thiết và thành lập Ban Dân vận. Giải phóng miền Trung (tức là Chính phủ lâm thời). Vì vậy, Quốc hội được coi là tiền thân của Quốc hội nước ta, cổ vũ toàn dân đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám thành công.

Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 14, thực hiện Tổng tuyển cử tự do trong cả nước và bầu Quốc hội. Trong cơn khủng hoảng, đứng trước nguy cơ mất nước, nhưng ngày 6-1-1946, nhân dân cả nước đã tổ chức tổng tuyển cử tự do thắng lợi bầu ra Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là Quốc hội khóa I, Quốc hội đầu tiên của nước ta.

Trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập, Quốc hội cũng cử ra Ban soạn thảo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại kỳ họp thứ hai (cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 1946), Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại kỳ họp ngày 09 tháng 11 năm 1946, nêu rõ các nhiệm vụ sau:

Sau khi Hiến pháp được thông qua, Quốc hội giải tán và bầu ra Hội đồng nhân dân. Bởi lẽ, tại Sắc lệnh số 14 ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Phổ thông đầu phiếu lập ra Quốc hội lập hiến”, nhưng Quốc hội lúc đó chưa giải tán do tình thế khẩn cấp. Tại phiên họp, nhiều đại biểu đề nghị Quốc hội tạm thời đảm nhận nhiệm vụ cho đến khi bầu được quốc hội mới theo hướng dẫn của hiến pháp 1946. Tháng 12 năm 1946, thực dân Pháp phát động chiến tranh ra toàn thế giới. Việt Nam. Do tình hình kháng chiến chống Nhật và yêu cầu của các đại biểu, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình cho đến năm 1959. Đại hội đại biểu toàn quốc cũng bầu ra Ủy ban thường vụ, nhưng nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban thường vụ chỉ giới hạn ở một số việc như liên hệ với chính phủ; Ban hành và thi hành cùng với Hiến pháp của chính phủ; Triệu tập Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực chất không phải là đơn vị uỷ quyền quyền lực nhà nước cao nhất giữa các kỳ họp.

Từ ngày 29-12-1956 đến ngày 25-01-1957, Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946 cho phù hợp với giai đoạn mới của cách mạng. Ngày 31-12-1959, Đại hội XI thông qua hiến pháp sửa đổi, Hiến pháp 1959 ra đời.

Theo Hiến pháp 1959, đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất không còn gọi là Quốc hội như Hiến pháp 1946 mà là Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng tại kỳ họp thứ 11 ngày 31-12-1959, Quốc hội đã ra Nghị quyết khẳng định:

“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiêu biểu cho sự thống nhất của nước ta và ý chí chiến đấu của nhân dân hai miền Nam Bắc”.

Các điều khoản tiếp theo:

– Nhiệm kỳ Quốc hội n (1960-1964), đất nước kế thừa truyền thống của Quốc hội khóa I, củng cố và tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân, làm tròn sứ mệnh lịch sử của chuyên chính vô sản.

– Quốc hội khóa III (1964-1971): Quốc hội đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phục vụ cách mạng miền Nam.

– Đại hội IV (1971-1975): Đại hội lãnh đạo nhân dân đánh thắng đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện độc lập, tự do của dân tộc.

– Quốc hội khóa V (4/1975 -4/1976). Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước độc lập, thống nhất. Ngày 25 tháng 4 năm 1976, nhân dân cả nước đã bầu ra Quốc hội Việt Nam thống nhất chịu trách nhiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, đó là Quốc hội khóa VI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. nghĩa tiếng Việt.

– Ngày 18-12-1980, Kỳ họp thứ bảy Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1980.

– Đại hội VII (6/1981 -4/1987). Tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của thời kỳ quá độ đất nước lên chủ nghĩa xã hội.

– Quốc hội khóa VIII (4/1987 đến 6/1992) là Quốc hội của thời kỳ Đổi mới. Ngày 15 tháng 4 năm 1992, kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua bản Hiến pháp thứ tư của nước ta.

– Sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành, nhân dân cả nước ta đã bầu ra Đại hội đại biểu lần thứ IX (7/1992 đến 7/1997). Quốc hội khóa IX động viên nhân dân cả nước tiếp tục công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước giàu mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

– Quốc hội khóa X (7/1997-5/2002) là Quốc hội tiếp tục đổi mới của đất nước. Đại hội X đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992.

– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2002-2007) tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

– Ngày 20-5-2007, nhân dân cả nước bầu cử Đại hội đại biểu lần thứ XII (2007-2011). Đây là Quốc hội trong thời kỳ đất nước hội nhập và phát triển toàn diện sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

– Tháng 5 năm 2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2011-2016) đã bầu ra là Đại hội đại biểu toàn quốc của thời kỳ đất nước tiếp tục hội nhập và phát triển toàn diện. Ngày 28 tháng 11 năm 2013, Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XIII đã thông qua bản Hiến pháp thứ năm của nước Việt Nam.

– Ngày 22 tháng 5 năm 2016, nhân dân Việt Nam đã tổ chức bầu cử quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021.

3. Vị trí, tính chất, chức năng của Quốc hội Việt Nam

Trong bộ máy nhà nước của nước ta, Quốc hội chiếm một vị trí đặc biệt cần thiết. Theo Hiến pháp 2013, tất cả quyền lực nhà nước ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc về nhân dân (Điều 2).

Nhân dân có thể thực hiện quyền lực thông qua các cách thức dân chủ trực tiếp, bán trực tiếp và gián tiếp. Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua các đơn vị uỷ quyền gián tiếp được bầu ra một cách dân chủ (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp). Vì vậy, Quốc hội và ủy ban nhân dân các cấp thường được gọi là đơn vị quyền lực nhà nước.

Trong bộ máy nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội là đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất. Nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi trong Hiến pháp 1946, Điều 22 Hiến pháp 1946 quy định:

“Hội đồng nhân dân là đơn vị quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Nguyên tắc này sau đó đã được củng cố và làm rõ hơn trong Hiến pháp 1959:

“Tất cả quyền lực ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” (Điều 4).

Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục củng cố và phát huy vai trò của Quốc hội trong việc xác định cơ cấu tổ chức của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhất là trong việc xác định địa vị, tính chất, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn. Quyền hạn của Cơ quan quyền lực Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ địa vị, tính chất của Quốc hội là đơn vị đại biểu cao nhất của nhân dân, đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 69). Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề cần thiết nhất của đất nước như thông qua hiến pháp và pháp luật, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức và hoạt động của các hội và đơn vị nhà nước; bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm những chức vụ cao nhất của bộ máy nhà nước; quyền tối cao giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước; quốc hội tập trung ý chí và sức lực của nhân dân cả nước.

Về bản chất, Quốc hội là đơn vị đại biểu tối cao của nhân dân. Đại biểu Quốc hội là công nhân, nông dân, trí thức và người lao động các dân tộc do nhân dân cả nước bầu ra, có trách nhiệm trước nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm vững tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của những người mà họ uỷ quyền. Và công tác chăm chỉ. Nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm, việc bầu đại biểu Quốc hội khóa mới bảo đảm nhân dân bầu, bổ sung đại biểu mới vào đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất.

Quốc hội với địa vị và tính chất như trên, thực sự là đơn vị đại biểu cao nhất của nhân dân, đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất, quyết định những vấn đề cần thiết nhất của đất nước.

Theo tinh thần trên, Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định chức năng, quyền hạn của Quốc hội bao gồm những nội dung chủ yếu sau:

– Quốc hội thực hiện quyền lập hiến và quyền lập pháp.

– Quốc hội quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đơn vị nhà nước, quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.

– Quốc hội giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước, bảo đảm các quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để, thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả.