Quy tắc Taylor trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam

Như chúng ta đã biết, hai chính sách rất cần thiết đối với nền kinh tế hiện nay đó chính là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, có thể thấy hai loại chính sách này đều được sử dụng làm công cụ để tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. Vì vậy chính sách tiền tệ là gì? Công cụ của chính sách tiền tệ được thực hiện thế nào? Quy tắc Taylor trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam thế nào? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu thông qua nội dung trình bày dưới đây. Mời các bạn cân nhắc.
Quy tắc Taylor trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam

1. Chính sách tiền tệ là gì?

Chính sách tiền tệ (Monetary Policy) là chính sách kinh tế vĩ mô, sử dụng các công cụ tín dụng và hối đoái tác động đến việc cung ứng tiền cho nền kinh tế nhắm tới các mục tiêu như ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, giảm lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế…

2. Khái niệm quy tắc Taylor

Quy tắc Taylor là mô hình CSTT được giới thiệu bởi Giáo sư Taylor năm 1993 mô tả lãi suất chính sách (LSCS) ngắn hạn (federal funds rate – FFR) của Fed được đo lường bằng hai thành tố chủ yếu là độ lệch lạm phát giữa mức lạm phát thực tiễn so với tỉ lệ lạm phát mục tiêu và độ lệch sản lượng giữa mức sản lượng thực tiễn so với sản lượng tiềm năng. Mô hình giảng giải mức độ ảnh hưởng của tỉ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực và tỉ lệ lạm phát có tính chất cơ bản quyết định đến sự thay đổi chính sách của Fed và như vậy lãi suất được điều chỉnh khi hai biến số kinh tế này tách khỏi xu hướng (biến số GDP) và mức độ mục tiêu của chúng (biến số lạm phát). Một cách khái quát, quy tắc Taylor là hàm phản ứng của NHTW trước cục diện kinh tế thay đổi (tỉ lệ lạm phát và độ lệch sản lượng).

FFR là lãi suất điều hòa vốn dự trữ giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) cho nhau vay nhằm khắc phục việc thiếu hụt tạm thời vốn dự trữ bắt buộc của TCTD ký quĩ tại Fed. FFR là lãi suất của các khoản vay qua đêm trên thị trường vốn dự trữ, một chỉ tiêu nhạy cảm về chi phí vốn vay của ngân hàng vay vốn dự trữ từ các ngân hàng khác và là lập trường của CSTT (Mishkin 2010, trang 31).

Vốn dự trữ là khoản tiền ký gửi của các ngân hàng trong tài khoản mở tại Fed và lượng tiền mặt trong ngân quĩ của các ngân hàng. Vốn dự trữ tăng lên dẫn đến lượng tiền gửi ngân hàng tăng và vì vậy, cung tiền tăng (Mishkin 2010, trang 347).

3. Ưu điểm và lợi thế của quy tắc Taylor

Ưu điểm của quy tắc Taylor:

– Đơn giản;

– Phản ánh chính xác diễn biến LSCS của Fed về giai đoạn 1987-1992;

– Là công cụ mang tính hướng dẫn trong việc hoạch định CSTT của các NHTW;

– Là công cụ giúp xem xét và đánh giá CSTT của các NHTW qua các thời kỳ khác nhau.

– Được nghiên cứu và phát triển dưới nhiều dạng khác nhau bởi các nhà kinh tế học và các NHTW trên thế giới.

Kahn (2010) đã trình bày các lợi thế của quy tắc Taylor như sau:

– Mô tả cách thức các nhà hoạch định chính sách phản ứng đến môi trường kinh tế thay đổi.

– Giúp các nhà hoạch định chính sách đạt mục tiêu lạm phát qua thời gian dài hạn.

– Giúp các nhà hoạch định chính sách chuyển tải sự hợp lý (và bản chất phụ thuộc vào số liệu) đối với quyết định của họ đến với công chúng.

– Giúp các nhà hoạch định chính sách đảm bảo hành động trong ngắn hạn phù hợp với các mục tiêu dài hạn.

– Giảm sự không chắc chắn về các quyết sách lãi suất chính sách hôm nay và trong tương lai.

– Giúp công chúng hiểu rõ được trách nhiệm về quyết định lãi suất chính sách của các nhà hoạch định chính sách.

4. Công thức của quy tắc Taylor

Công thức nguyên thủy của Giáo sư Taylor (1993) như sau:

it = πt + 0,5(yt)+ 0,5(πt – 2) + 2     (1.1)

và dạng tổng quát:

it = πt + r* + 0,5(πt – π*) + 0,5(yt)    (1.2)

Trong đó:

it : LSCS của Fed

r*: lãi suất thực cân bằng (equilibrium real interest rate)

πt: Tỉ lệ lạm phát bình quân qua 4 quí liên tiếp (Judd và Rudebusch 1998)

π* : Tỉ lệ lạm phát mục tiêu dài hạn

yt: độ lệch tổng sản lượng (output gap)

hoặc yt = 100 x Ln (GDP thực tiễn / GDP tiềm năng) (Kozichi 1999, trang 26)

Theo Taylor (1993), nếu lãi suất thực bình quân cân bằng là 2%, tỉ lệ lạm phát bình quân qua 4 quí là πt = 2%, và mức lạm phát thực tiễn trùng với lạm phát mục tiêu; sản lượng thực tiễn bằng sản lượng tiềm năng (tức là các độ lệch bằng 0), thì FFR sẽ là 4%.

Taylor (1993) cho rằng, đặt một trọng số lên độ lệch sản lượng thì hiệu quả hơn là không đặt trọng số; tuy vậy, chưa xác định được trọng số về độ lệch sản lượng là cao hơn hay thấp hơn so với trọng số của độ lệch lạm phát. Do đó, Taylor đã áp hệ số 0,5 cho các độ lệch này trong công thức (1.2).

Biến đổi công thức (1.2) ta có dạng như sau:

it = π* + r* + 1,5(πt – π*) + 0,5 (yt) (1.3)

Dễ dàng kiểm chứng công thức (1.2) và (1.3) là như nhau và như vậy, công thức (1.3) đã thay thành tố đầu tiên của (1.2) là πt thành π* với hệ số độ lệch lạm phát bây giờ là 1,5 thay vì 0,5. Công thức (1.3) có ý nghĩa rằng LSCS (it) sẽ tăng thêm (giảm đi) 1,5 điểm phần trăm nếu tỉ lệ lạm phát thực tiễn cao hơn (thấp hơn) 1 điểm phần trăm; cũng vậy, LSCS sẽ tăng thêm (giảm đi) bởi 0,5 điểm phần trăm nếu tỉ lệ tăng trưởng GDP tăng hơn (thấp hơn) mức sản lượng tiềm năng một điểm phần trăm. Điều này cho thấy, quy tắc Taylor (1993) đã coi trọng kiểm soát mục tiêu lạm phát hơn.

Dạng tổng quát của (1.3) sẽ là:

it = π* + r* + βπ(πt – π*) + βy(yt)   (1.4)

Trong đó, βπ là hệ số độ lệch lạm phát, βy là hệ số độ lệch sản lượng.

5. Quy tắc Taylor trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam

NHNN Việt Nam sử dụng khá nhiều công cụ chính sách trong điều hành chính sách tiền tệ. Bên cạnh quy định về dự trữ bắt buộc, NHNN có một loạt các lãi suất chính sách như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở. Đồng thời, nhiều công cụ mang nặng tính hành chính như trần tăng trưởng tín dụng hay trần lãi suất ngắn hạn cũng được áp dụng để đạt được các mục tiêu đề ra.

Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, hàng năm Chính phủ và NHNN đồng thời theo đuổi cả hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Mức tăng trưởng GDP mục tiêu có thể tìm thấy ở các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội mỗi giai đoạn năm năm. Trong khi đó, mức lạm phát mục tiêu hàng năm được Chính phủ và NHNN công bố vào cuối năm trước. Với việc theo đuổi đồng thời hai mục tiêu tăng trưởng và lạm phát, chính sách tiền tệ của Việt Nam có mục tiêu giống như quy tắc Taylor. Tuy nhiên, khác với quy tắc Taylor, để đạt được các mục tiêu này, hàng năm NHNN công bố các mục tiêu chính sách liên quan đến tăng trưởng cung tiền/tín dụng và lãi suất. Quy tắc cung tiền/tín dụng thiên về thúc đẩy tăng trưởng, trong khi đó các lãi suất chính sách được sử dụng để đảm bảo kiểm soát lạm phát. Ví dụ, trong năm 2019, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng cung tiền là 14% trong khi lãi suất tái cấp vốn duy trì quanh mốc 6,0%. Việc công bố và theo đuổi một mức tăng trưởng cung tiền/tín dụng và lãi suất cố định mang hơi hướng của một chính sách tiền tệ thụ động. Tức là, công cụ chính sách được ấn định trước chứ không được lập kế hoạch điều chỉnh theo những diễn biến của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, việc ấn định mức tăng trưởng cung tiền hay lãi suất để theo đuổi một mức lạm phát mục tiêu là việc làm chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Ấn định các công cụ chính sách khiến cho chính sách tiền tệ mất đi tính linh hoạt trong việc kiểm soát lạm phát bởi NHNN không thể đồng thời vừa tăng cung tiền lại vừa cắt giảm lạm phát trong trường hợp cần thiết, và ngược lại. Tương tự như vậy, lãi suất cũng không thể thay đổi linh hoạt khi tốc độ tăng cung tiền được ấn định trước. Một phần vì lý do này, các mức lãi suất điều hành ở Việt Nam mang nặng tính hành chính, không có khả năng định hướng hay phản ánh diễn biến của thị trường. Hơn nữa, mức tăng trưởng cung tiền hiện nay của Việt Nam (~15%) mặc dù đã giảm nhiều so với giai đoạn trước, nhưng vẫn còn khá cao so với tăng trưởng kinh tế (~7) và mục tiêu lạm phát (<4%). Việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cung tiền quá cao trong thời gian dài, nếu không gây ra lạm phát thì cũng tạo bong bóng giá trên thị trường tài sản.

Hình 1: Lãi suất tái cấp vốn và các lãi suất theo quy tắc Taylor.
Nhìn chung, các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam là tương đối nhiều, rắc rối và mang nặng tính hành chính. Một số mục tiêu chính sách còn mâu thuẫn nhau, trong khi không có một quy tắc điều hành rõ ràng nào được công bố. Điều này có nghĩa là NHNN có thể linh hoạt hơn với chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, ngoài những nhược điểm của một chính sách tùy nghi đã phân tích ở trên, sự linh hoạt này cũng đồng nghĩa với việc chính sách tiền tệ trở nên khó đoán định hơn đối với thị trường.
NHNN cũng thiếu một thước đo lạm phát kì vọng khiến cho họ mất đi nguồn thông tin cần thiết phản ánh lạm phát và diễn biến tương lai của nền kinh tế, và do vậy phản ứng chính sách không có tính đón đầu. Việc gửi phiếu phỏng vấn các chuyên gia hiện nay của NHNN thường đem lại thông tin kém tin cậy, sai lệch do nhiều người được hỏi thiếu thực tiễn thị trường, mẫu điều tra nhỏ và không uỷ quyền. Trong thời gian tới, Việt Nam nên phát hành các loại trái phiếu/tín phiếu có coupon điều chỉnh theo lạm phát (TIPS – Treasury Inflation-Protected Security). Chênh lệch giữa lợi suất của TIPS và lợi suất của các loại trái phiếu thông thường khác sẽ cho NHNN những thông tin cần thiết về lạm phát trong tương lai để từ đó có những điều chỉnh chính sách thích hợp.
Nhận xét: Hình 1 thể hiện diễn biến của lãi suất tái cấp vốn và các lãi suất tính toán theo quy tắc Taylor với các tham số (phi_p) và (phi_y) khác nhau. Trong đó, được giả định bằng 7%; = 7% trong giai đoạn 2010-2013, 5% trong giai đoạn 2014-16, và 4% trong giai đoạn 2017-19; =7,5% trong năm 2010, 6,5% trong giai đoạn 2011-19. Có thể thấy, diễn biến của lãi suất tái cấp vốn là phù hợp nhất với trường hợp , điều này hàm ý NHNN đặt tầm cần thiết của thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ngang hàng với kiểm soát lạm phát. Bên cạnh đó, lãi suất chính sách của Việt Nam là khá cứng nhắc, thụ động so với quy tắc Taylor, đặc biệt là khoảng 5 năm trở lại đây. Lãi suất tái cấp vốn gần như nằm ngang, không điều chỉnh theo diễn biến lạm phát hay tăng trưởng như gợi ý bởi quy tắc Taylor.
Trên đây là nội dung trình bày về Quy tắc Taylor trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam mời bạn đọc thêm cân nhắc và nếu có thêm những câu hỏi về nội dung trình bày này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với LVN Group theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. LVN Group đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com