1. Khách thể là gì?
Khách thể là lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần hoặc cả lợi ích mà các bên mong muốn đạt được khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định.
Tuy nhiên, cũng có người hiểu khách thể là đối tượng của nhận thức, và chính con người có ý thức, ý chí tác động lên chủ thể.
Mặc dù hiện nay không có một định nghĩa thống nhất về đối tượng là gì? Nhưng theo đặc điểm riêng của đối tượng, chúng ta có thể đưa ra một số định nghĩa như trên.
2. Xác định khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng bị tội phạm xâm hại. Nó cũng là yếu tố không thể cấu thành tội phạm nếu thiếu nó.
Nhiều mối quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Tuy nhiên, luật hình sự chỉ bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và cá nhân.
Hiện nay chúng ta thấy có nhiều quan điểm về khách thể của tội phạm nhưng phần lớn đều cho rằng khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, một số người nghĩ rằng các mối quan hệ xã hội chỉ là những đối tượng bình thường.
3. Khách thể của tội phạm là gì?
Luật hình sự chia khách thể phạm tội thành ba loại: khách thể chung, khách thể phân loại và khách thể trực tiếp.
3.1.Các đối tượng phạm tội phổ biến
Khách thể chung của tội phạm là tổng thể các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà tội phạm xâm phạm. Mọi hành vi phạm tội đều gây tổn hại cho khách thể chung của tội phạm.
Theo khoản 1 Điều 8 BLHS 2015, khách thể chung của tội phạm là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản của công dân và các quyền, lợi ích hợp pháp cơ bản khác của xã hội do pháp luật quy định.
Thông qua việc nghiên cứu đối tượng chung, chúng ta có thể thấy được các chính sách của nhà nước đồng thời phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm khác ngoài tội phạm.
3.2.Các loại tội khách
Đó là một nhóm các mối quan hệ xã hội tương tự, liên kết với nhau, trở thành nạn nhân của một nhóm ngoài vòng pháp luật.
Các loại tội phạm có trong BLHS là các chương quy định trong các tội phạm. Ví dụ: các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân; các tội xâm phạm hôn nhân và gia đình; các tội về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, v.v.
Trong công tác lập pháp chủ yếu nghiên cứu về các loại tội phạm. Đây là cơ sở để hệ thống hóa, sắp xếp từng chương của BLHS thành các chương riêng phù hợp với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Trên cơ sở này, chúng ta có thể phân biệt các loại tội phạm khác nhau trong Bộ luật hình sự.
3.3.Đối tượng trực tiếp của tội phạm
Khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội cụ thể do khách thể tội phạm cụ thể trực tiếp xâm phạm. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để cấu thành tội phạm theo hướng dẫn tại Bộ phận cấu thành tội phạm của BLHS.
Mọi tội phạm thông thường đều xâm phạm đối tượng trực tiếp. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp tội phạm xâm phạm nhiều khách thể nhưng căn cứ vào nhiều yếu tố khác như: nhận thức chủ quan, khách quan hoặc hậu quả xảy ra thì KSV có quyền quy định dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. là khách thể trực tiếp, còn những khách thể nào là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Hành vi cướp tài sản đồng thời xâm phạm đến hai khách thể, đó là quan hệ giữa tính mạng con người và quyền sở hữu tài sản. Tuy nhiên, căn cứ vào việc động cơ phạm tội là công nhiên chiếm đoạt tài sản nên tòa án đã công nhận dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm là quan hệ sở hữu.
Các nhà làm luật thường quy định khách thể tác động là khách thể trực tiếp mà ít quy định nó nằm trong cấu thành tội phạm. Đối với nhiều người, đây là một tính năng dễ gây nhầm lẫn đối tượng với đối tượng mục tiêu.
Ví dụ: do nhiều nhà lập pháp chỉ quy định mục đích xâm phạm tài sản hoặc gây tổn hại về tài sản nên trong các tội xâm phạm quan hệ tài sản người ta thường cho rằng khách thể trực tiếp là tài sản mà không thấy quan hệ đó là quyền sở hữu của tài sản mới. đối tượng trực tiếp.
Việc xác định khách thể trực tiếp không chỉ căn cứ vào nội dung tội phạm mà luật quy định mà còn căn cứ vào động cơ, mục đích, lỗi và những tình tiết cụ thể khác, yếu tố khách quan, đặc điểm chủ thể của các tội phạm khác. …
4. Một số ví dụ về khách thể phạm tội
Ví dụ số 1:
Hành vi cướp tài sản không chỉ xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà còn gây tổn hại cho quan hệ tài sản. Nguy cơ bị cướp chỉ trở nên rõ ràng khi các mối quan hệ cá nhân và tài sản bị xâm phạm. Do đó, cả hai đối tượng đều là đối tượng trực tiếp của tội phạm.
Khách thể trực tiếp là căn cứ chỉ rõ nhất tính chất của tội phạm cụ thể. Nó giúp cho việc xác định đúng tội phạm và đánh giá đúng mức độ nguy hiểm của tội phạm đó.
Ví dụ số 2:
Anh A có hành vi chiếm đoạt tài sản của anh B là xâm phạm đến đối tượng sở hữu trực tiếp của anh B, đồng thời gây tổn hại cho vật chung, sở hữu của công dân (đối tượng).
Một tội phạm có thể gây tổn hại cho nhiều đối tượng nhưng không phải đối tượng nào cũng bị coi là ngay. Khi đó, khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội do tội phạm gây ra mới giải thích trọn vẹn tính nguy hiểm của tội phạm.
5. Các yếu tố cấu thành tội phạm khác
Không chỉ xem xét các yếu tố khách quan mà còn phải xem xét các yếu tố khác như chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan mới cấu thành tội phạm. Đặc biệt:
Chủ đề
Theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015, chủ thể của tội phạm bao gồm cá nhân, pháp nhân thương mại.
Người phạm tội có nhận thức trọn vẹn về hành vi của mình, đủ tuổi theo hướng dẫn của pháp luật và hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Những tội phạm như vậy được điều chỉnh bởi luật hình sự. Theo đó, người đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội trừ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và nghiêm trọng đã được quy định.
Mặt khác, chủ thể tội phạm còn có thể là pháp nhân thương mại. Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự thì không thể miễn trách nhiệm hình sự cá nhân. Ngay cả khi cá nhân trong pháp nhân thương mại đã chịu trách nhiệm hình sự thì hành vi trái pháp luật của người đó vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khía cạnh chủ quan
Mặt chủ quan của tội phạm thể hiện ở sự cố ý hoặc vô ý cẩu thả. Sai lầm là đánh giá trạng thái tinh thần của tội phạm dưới góc độ động cơ, mục đích của hành vi.
Vô tư là việc người phạm tội biết rõ hành vi của mình có thể gây ra hoặc không gây nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả của hành vi đó sẽ không xảy ra hoặc có thể khắc phục được. Lỗi vô tình được xếp vào loại lỗi vô ý do quá bất cẩn và quá tự tin.
Lỗi cố ý xảy ra khi người thực hiện nhận thức được hành vi của mình gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó nhưng mong muốn hậu quả đó xảy ra. Lỗi cố ý được chia thành hai loại: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
Khía cạnh khách quan
Đặc điểm khách quan của tội phạm được thể hiện thông qua tính chất nguy hiểm của hành vi; hậu quả của hành vi đó; công cụ, nguồn lực, kỹ thuật,… được sử dụng để thực hiện hành vi đó.
Đó là tất cả những gì chúng tôi thu thập được về khái niệm khách thể là gì, khách thể của tội phạm và những vấn đề xung quanh nó. Hy vọng nội dung trình bày này có thể giúp ích cho việc học tập và nghiên cứu của các bạn.