1. Khách thể là gì?
Khái niệm khách thể thường được sử dụng trong luật hình sự còn được gọi là khách thể của tội phạm. Đây là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị hành vi phạm tội xâm phạm. Theo hệ thống hình phạt Việt Nam, các mối quan hệ này là:
- Về mối quan hệ độc lập
- Chủ quyền
- Đoàn kết
- Toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
- Chính sách
- Văn hoá
- Quốc phòng
- Sự an toàn
- Im lặng
- An ninh xã hội
- Lợi ích hợp pháp của tổ chức
- Quyền con người
- Các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân. . .
- Các lĩnh vực khác của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Quan hệ xã hội do luật hình sự điều chỉnh là khách thể của tội phạm này. Phụ thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhưng trong đời sống xã hội, thường thì quan hệ xã hội mới là cần thiết. Tuy nhiên, không phải mọi thứ làm gián đoạn các mối quan hệ này đều là tội ác. Nội dung của hành vi gây tổn hại phải ở mức “nguy hiểm đặc biệt lớn” mới bị coi là tội phạm
2. Khách thể tội phạm là gì?
Khách thể là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng bị tội phạm xâm phạm.
Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm nên được hiểu là khách thể của tội phạm.
Luật hình sự coi chủ thể của hành vi xâm hại là một quan hệ xã hội. Mọi hành vi phạm tội đều xâm phạm đến một hoặc một số quan hệ xã hội cụ thể được luật hình sự bảo vệ.
Việc xác định khách thể của tội phạm có ý nghĩa rất cần thiết trong luật hình sự vì:
– Là căn cứ để xác định tội phạm và là căn cứ cần thiết để phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
– Là căn cứ cần thiết để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm đối với cộng đồng, xã hội.
– Bản chất giai cấp của luật hình sự Việt Nam thể hiện qua khách thể của tội phạm.
3. Một số ví dụ về khách thể tội phạm
Ví dụ 1:
Cướp xâm phạm cả quan hệ nhân thân và tài sản. Tính nguy hiểm của tội cướp tài sản chỉ thể hiện trọn vẹn thông qua việc xâm phạm kép quan hệ nhân thân và tài sản. Do đó, cả hai đối tượng đều là đối tượng trực tiếp của tội phạm.
Khách thể trực tiếp là căn cứ chỉ rõ nhất tính chất của tội phạm cụ thể. Nó giúp xác định đúng hành vi phạm tội và đánh giá đúng tác hại cho xã hội của một hành vi phạm tội cụ thể.
Ví dụ 2:
Việc trộm cắp đường dây điện thoại đang sử dụng không những phá hoại quan hệ tài sản xã hội chủ nghĩa mà còn phá hoại an ninh thông tin liên lạc. Nhưng vi phạm an ninh thông tin liên lạc nói lên rất nhiều về sự nguy hiểm của tội phạm. Do đó, tội phạm này phải được xác định là tội phá hoại công trình, phương tiện cần thiết về an ninh quốc gia chứ không thể xác định là tội trộm cắp tài sản.
Trong nhiều trường hợp tội phạm xâm phạm nhiều khách thể nhưng việc xâm phạm một khách thể nào cũng nói lên tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, chúng ta cần xem xét dấu hiệu thứ hai để xác định loại tội phạm. Đó là: trong mọi trường hợp, người phạm tội cụ thể nào cũng phải xâm phạm đối tượng đó, hoặc người phạm tội muốn xâm hại đối tượng nào (lỗi)… .
Chẳng hạn như hành động giật túi xách của người đi đường khiến chủ nhân bị ngã và bị thương. Ở đây, có hai đối tượng bị xâm phạm là quyền tài sản và sức khỏe. Tuy nhiên, quyền và tài sản là khách thể trực tiếp của hành vi “giật tiền”, còn sức khỏe không phải là khách thể trực tiếp của hành vi.
Một tội phạm có thể có một khách thể trực tiếp hoặc nhiều khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp của tội phạm là nhiều mặt, khi tội phạm xâm phạm nhiều quan hệ xã hội thì việc xem xét tổn hại của quan hệ xã hội nào không thể phản ánh hết tính nguy hiểm cho xã hội. trường hợp tội phạm.
Ví dụ 3:
A trộm cắp tài sản của B, A đã xâm phạm đến đối tượng trực tiếp là quyền sở hữu tài sản của B, đồng thời đã làm tổn hại đến đối tượng, chủng loại chung của tài sản công dân.
Một tội phạm có thể xâm hại nhiều đối tượng nhưng không phải đối tượng nào cũng được coi là khách thể trực tiếp. Khi đó khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội do tội phạm gây ra đã thể hiện trọn vẹn tính nguy hiểm của tội phạm.