Phân tích các kỹ năng mà luật sư cần sử dụng trong tranh tụng phiên tòa.
Một luật sư tranh tụng giỏi là luật sư hội tụ đầy đủ chuyên môn vững vàng và các kỹ năng vượt trội. Người luật sư cần rèn luyện để sở hữu những kỹ năng cơ bản cho mình như kỹ năng giao tiếp hiệu quả, kỹ năng tranh luận sắc bén, kỹ năng nghiên cứu và phân tích sâu sắc, kỹ năng đàm phán thuyết phục… Đặc biệt, vai trò của luật sư trong tranh tụng được thể hiện ở các công việc mà luật sư phải làm trong các giai đoạn của quá trình tố tụng: khởi kiện, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, kháng cáo…và cũng trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án, luật sư đều có vai trò tư vấn pháp luật. Vì vậy đòi hỏi người luật sư phải có rất nhiều kĩ năng, và để tìm hiểu kĩ hơn về đề tài này em xin chọn đề bài số 2: “Phân tích các kỹ năng mà luật sư cần sử dụng trong tranh tụng phiên tòa.”
I. Chuẩn bị tham gia và kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa:
1. Tiếp nhận yêu cầu và trao đổi với khách hàng, sử dụng kĩ năng giao tiếp, đàm phán, thuyết phục của một luật sư:
1.1 Trao đổi nội dung vụ tranh chấp:
Thông qua việc trình bày của khách hàng, luật sư lắng nghe và đặt các câu hỏi gợi ý để khách hàng trình bày đúng bản chất của sự việc một cách vô tư, khách quan, nhằm xác định rõ bản chất sự việc và biết được khách hàng đang quan tâm đến vấn đề gì, yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu có liên quan đến vụ tranh chấp. Cần xác định rõ một số vấn đề như sau:
+) Loại tranh chấp? Các bên trong quan hệ tranh chấp gồm những ai, tư cách như thế nào? Nội dung của tranh chấp?
+) Yêu cầu cụ thể của khách hàng là gì? Tài liệu, chứng cứ mà khách hàng cung cấp là gì, đánh giá giá trị của chứng cứ đó…
Khách hàng có thể yêu cầu luật sư tư vấn hoặc yêu cầu luật sư đóng vai trò là người bảo vệ quyền lợi hay người đại diện cho họ trong quá trình giải quyết vụ án.
1.2. Quyết định có nên kiện hay không:
Việc khởi kiện hay không khởi kiện thuộc quyền tự định đoạt của các đương sự. Trong nhiều trường hợp đương sự cũng không tự quyết định được có nên khởi kiện hay không. Điều đó ảnh hưởng nhiều đến việc quyết định lợi ích của chính bản thân họ. Tóm lại, các đương sự quan tâm là họ được lợi bao nhiêu hay không được lợi gì trong trường hợp họ khởi kiện ra trước Tòa án. Luật sư phải giúp đương sự thực sự hiểu rõ nếu họ khởi kiện thì khả năng họ được lợi sẽ là bao nhiêu phần trăm cũng như nếu họ không khởi kiện thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ được bảo vệ như thế nào. Luật sư là người không những chỉ nắm bắt pháp luật mà còn hiểu được trạng thái tâm lý khách hàng của mình. Không nên chỉ khởi kiện vì một mục đích là thỏa mãn tính kiêu ngạo và tính hiếu thắng của khách hàng.
2. Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện:
Thông thường đương sự khi viết cho mình một đơn khởi kiện, họ thường bỏ qua các yếu tố về hình thức mà chủ yếu chỉ muốn yêu cầu Tòa án xem xét và giải quyết yêu cầu của mình. Một đơn kiện như thế có thể không bao hàm hết những nội dung mà nguyên đơn muốn trình bày. Đơn kiện đó cũng không có ý nghĩa tạo ra một sự chú ý từ phía Tòa án. Vì vậy, Luật sư phải giúp đương sự viết đơn hoặc tự mình viết đơn cho đương sự để ít nhất một đơn kiện hoàn chỉnh nhất. Sau khi đương sự đã viết xong đơn khởi kiện hoặc Luật sư đã viết xong đơn khởi kiện cho đương sự, Luật sư và đương sự cần ngồi với nhau để xem lại lần cuối cùng trước khi gửi đơn cho Tòa án có thẩm quyền.
3. Hướng nhất đương sự thu thập và cung cấp chứng cứ:
Để chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình được tốt, đương sự cần chuẩn bị cho mình những chứng cứ cần thiết. Những chứng cứ đó đương sự phải tự mình thu thập. Các chứng cứ mà đương sự có thể tự thu thập được thông thường bao gồm: Các hồ sơ cá nhân mà đương sự thường giữ một bản, ví dụ: các bản hợp đồng, các bản di chúc, giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh …
Có một số giấy tờ, tài liệu hoặc chứng cứ đương sự phải tự mình thu thập thông qua các cơ quan chính quyền ở địa phương, ví dụ: giấy xin xác nhận hộ khẩu thường trú, giấy xin xác nhận hoặc chứng nhận về một sự kiện pháp lý nào đó. Trong một vụ án thông thường có rất nhiều loại chứng cứ khác nhau. Luật sư cần hướng dẫn các đương sự nắm bắt được sơ bộ chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét và giải quyết vụ án, trên cơ sở đó giúp đương sự tập hợp các chứng cứ lại theo hướng dẫn của mình.
4. Hướng dẫn đương sự cung cấp chứng cứ cho tòa án:
Sau khi đã thu thập được các chứng cứ cần thiết Luật sư cần hướng dẫn các đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Về nguyên tắc, các chứng cứ sẽ được lần lượt cung cấp cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Tuy vậy, cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào là một quyết định có tính chất chiến lược. Vì vậy cần cân nhắc kỹ cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào, Luật sư sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong trường hợp này.
5. Luật sư nghiên cứu hồ sơ, sử dụng kĩ năng nghiên cứu và phân tích sâu sắc:
Nghiên cứu hồ sơ trong bối cảnh này để tìm hiểu, xem xét kỹ lưỡng những vấn đề cốt lõi trong hồ sơ, nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án tranh chấp. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư phải nắm được các thông tin quan trọng, kiểm tra thông tin, rút ra điểm lợi thế và điểm bất lợi của các bên tranh chấp. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Luật sư phải ghi chép những nội dung quan trọng hay sao chép tài liệu và các bút lực cần thiết, hệ thống lại trên cơ sở đánh giá chứng cứ và bổ sung thêm nếu thấy cần thiết. Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư phải kiểm tra, đánh giá những thông tin có được nhằm xác định độ chính xác của thông tin.
Vấn đề này đã đặt ra thách thức ở mức độ ngày càng cao hơn khi bối cảnh nước Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế. Bởi vậy, sự thay đổi hàng loạt các quy định về pháp luật để phù hợp với sân chơi chung của thế giới sẽ càng đòi hỏi người làm luật sư, nhất là luật sư tranh tụng hoạt động phải nhiều hơn để nâng cao kiến thức chuyên ngành và bắt kịp những thay đổi của pháp luật.
6. Chuẩn bị cá nhân của luật sư trong giai đoạn chuẩn bị xét xử:
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật sư phải làm việc rất bận rộn. Một mặt, vừa phải chuẩn bị cho khách hàng của mình, một mặt Luật sư phải tự chuẩn bị cho mình. Những phần việc Luật sư cần chuẩn bị cho mình có thể được thể hiện dưới dạng sau:
– Thu thập chứng cứ;
– Nghiên cứu hồ sơ vụ án;
– Nghiên cứu và đánh giá chứng cứ;
– Chuẩn bị đề cương bản luận cứ;
– Làm việc với Tòa án khi cần thiết.
II. Kỹ năng mà luật sư phải sử dụng trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm:
Giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa có một ý nghĩa gần như quyết định đối với Luật sư tranh tụng. Trong giai đoạn này Luật sư thể hiện hết tài thao lược của mình, bộc lộ hết các quan điểm và ý tưởng của mình.
1. Luật sư trong giai đoạn xét hỏi:
Giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn điều tra công khai có sự tham gia của tất cả những người tham gia tố tụng. Luật sư cần phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử, trừ trường hợp đặc biệt. Luật sư cần phải chú ý theo dõi quá trình hội đồng xét xử tiến hành thủ tục xét hỏi tại phiên tòa. Về mặt thủ tục, Luật sư có quyền được đặt các câu hỏi để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình bằng cách thông qua các câu trả lời để khẳng định công khai những vấn đề cần phải làm sáng tỏ trong vụ án.
2. Ghi chép diễn biến của phiên tòa:
Khi theo dõi thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, Luật sư cần phải ghi chép đầy đủ lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện của đương sự, kiểm sát viên, người làm chứng, người giám định, quá trình xem xét vật chứng. Bản ghi chép này là tiền đề để Luật sư đặt các câu hỏi cho thân chủ của mình hoặc cho những người tham gia tố tụng khác để họ tự mình khẳng định công khai trước Tòa những vấn đề cần được làm rõ.
3. Đặt các câu hỏi:
Luật sư có quyền đặt các câu hỏi để yêu cầu thân chủ của mình hoặc những người tham gia tố tụng khác trả lời cho Tòa án nhằm làm rõ những tình tiết quan trọng. Trong những trường hợp khi các câu hỏi của Luật sư được các đương sự trả lời mà Luật sư thấy cần thiết phải nhấn mạnh thì đề nghị HĐXX lưu ý và đề nghị thư ký phiên tòa ghi nhận điều đó vào biên bản phiên tòa. Đối với các câu hỏi dành cho thân chủ của mình, Luật sư không nên đặt ra những vấn đề hóc búa mà trước đó Luật sư chưa có điều kiện trao đổi với thân chủ. Chỉ nên đặt những câu hỏi mà từ trước đó Luật sư đã trao đổi với thân chủ của mình, hai bên đã thống nhất về câu hỏi và câu trả lời.
4. Tranh luận tại phiên tòa:
Trong phần tranh luận nếu có sự tham gia của Luật sư, Luật sư của nguyên đơn sẽ được trình bày quan điểm của mình trước HĐXX. Trong phần tranh luận, khi trình bày quan điểm của mình Luật sư cần nhận định về các tình tiết quan trọng của vụ án, trình bày quá trình đánh giá chứng cứ và khẳng định giá trị chứng minh của các chứng cứ mà Luật sư đã đánh giá. Luôn luôn dùng các văn bản pháp luật làm căn cứ cho những nhận định và kết luận của mình. Trong quá trình tranh luận, thông thường người tham gia tranh luận chỉ có quyền đáp lại ý kiến của người khác một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Khi đáp lại ý kiến mà mình không đồng ý Luật sư nên trình bày ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề đồng thời nếu cần thiết dùng ngay lập luận của họ để phán bác lại.
Trong bất kỳ trường hợp nào thì mục đích của việc tranh luận cũng là để làm sáng tỏ những tình tiết cần chứng minh của vụ án trên cơ sở đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Không được lồng các ý tưởng mang tính chủ quan hoặc cá nhân để trình bày trong phần tranh luận. Nếu thấy đã tranh luận về các vấn đề nhưng vẫn chưa rõ hoặc chưa khẳng định được những tình tiết chính trong vụ án thì Luật sư có thể đề nghị HĐXX quay trở lại phần thẩm vấn.
5. Sau khi tiến hành phiên tòa sơ thẩm:
Theo quy định của pháp luật, sau khi Toà án tuyên án thì đương sự hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền được xem biên bản phiên toà và đề xuất điều chỉnh hoặc bổ sung biên bản phiên toà cho phù hợp (nếu được Toà án cho phép thì tốt, còn nếu không phải lập thành văn bản gửi Toà án), do đó luật sư cùng với khách hàng của mình đề xuất với Toà án được xem biên bản phiên toà và cùng nhau trao đổi, phát hiện những vấn đề cần điều chỉnh, bổ sung. Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp có lỗi về chính tả, tính toán sai số liệu.
III. Kỹ năng của luật sư trong giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự:
1. Kỹ năng của Luật sư khi tham gia phúc thẩm.
1.1. Chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử của Tòa án, Luật sư phải có những công việc chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Cụ thể Luật sư có thể đề nghị cho nghiên cứu hồ sơ, qua đó, Luật sư có thể đề nghị với Tòa án áp dụng những biện pháp cần thiết. Về thủ tục hòa giải ở phúc thẩm là không bắt buộc. Tòa án phúc thẩm chỉ tiến hành hòa giải khi có khả năng hòa giải thành. Trong trường hợp nếu hòa giải thành trước khi mở phiên tòa, thì tòa vẫn mở phiên tòa….
1.2. Tham gia phiên tòa.
Sau khi những công việc chuẩn bị hoàn tất, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ mở phiên tòa phúc thẩm. Về cơ bản, thủ tục phiên tòa phúc thẩm được tiến hành với các bước giống như phiên tòa sơ thẩm. Do vậy, để việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự được tốt, Luật sư cũng phải tham gia phiên tòa với những kỹ năng giống như kỹ năng tham gia phiên tòa sơ thẩm. Ngoài việc chuẩn bị những vấn đề về nội dung của vụ án, Luật sư còn phải theo dõi cả những vấn đề thủ tục của phiên tòa và có ý kiến kịp thời để việc thực hiện những thủ tục đó không làm thiệt hại quyền lợi cho đương sự.
2. Kỹ năng của Luật sư trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.
Giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục xét xử đặc biệt, được tiến hành khi bản án, quyết định đã có hiệu lực của pháp luật.
Vì vậy, nếu ở cấp phúc thẩm, Luật sư có quyền tham gia trực tiếp vào quá trình phúc thẩm, thì ở cấp giám đốc thẩm, tái thẩm, Luật sư chỉ có thể giúp đương sự duy nhất trong việc đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Trên cơ sở đề nghị này người có thẩm quyền kháng nghị sẽ xem xét và nếu thấy có đủ những căn cứ được quy định trong pháp luật, mới thực hiện quyền kháng nghị.
* Kết luận: Để thực sự trở thành luật sư tranh tụng giỏi là không hề dễ dàng. Vì vậy các luật sư nói chung và luật sư tranh tụng nói riêng luôn phải tự trau dồi, tích lũy kiến thức pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp một cách thường xuyên.