Trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong hoạt động huy động vốn nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền – liên hệ thực tiễn.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với xu hướng “toàn cầu hoá” hiện nay, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế lại càng trở nên cấp thiết. Các tổ chức tín dụng (TCTD) là một loại hình doanh nghiệp đặc thù với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nên vô cùng nhạy cảm với nền kinh tế. Các Tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức sử dụng vốn tự có và vốn huy động để cho vay, đầu tư và cung cấp dịch vụ tiền tệ khác. Như vậy, an toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng. Để đảm bảo an toàn trong kinh doanh của các TCTD pháp luật có những quy định có tính hạn chế quyền tự do kinh doanh của các TCTD nhằm bảo đảm an toàn cho chính họ, đồng thời để bảo vệ những lợi ích chung của Nhà nước bao gồm sự ổn định tiền tệ quốc gia, sự an toàn của cả hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của người gửi tiền và hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu cực, rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
1.Khái quát hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân[1]
Huy động vốn theo nghĩa chung nhất là việc các TCTD tập trung những giá trị tiền tệ từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng là vốn để kinh doanh.
Huy động vốn là hoạt động thường xuyên và luôn gắn liền với kế hoạch kinh doanh của TCTD, bởi lẽ vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để các TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, khi tiến hành các hoạt động huy động vốn, TCTD phải tính toán sao cho việc sử dụng đồng vốn huy động được hiệu quả nhất. Mặt khác, huy động vốn xét về bản chất chính là việc TCTD đi vay tiền từ các chủ sở hữu số tiền đó và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn.
Vai trò của hoạt động huy động vốn:
– Đối với các TCTD:
Huy động vốn đem lại nguồn vốn lớn, chủ yếu cho các TCTD tiến hành các hoạt dộng kinh doanh. Nguồn vốn này là cơ sở để các TCTD tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của TCTD, quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của TCTD trên thương trường, quyết định năng lực cạnh tranh của TCTD,..Không những thế, huy động vốn còn tạo tiền đề để TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh khác như: làm dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, góp phần làm tăng thêm lợi nhuận cho các TCTD.
– Đối với nền kinh tế:
Thông qua hoạt động huy động vốn của các TCTD, nền kinh tế có thêm một kênh thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi khác nhau trong dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho kênh phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, sự cung cầu vốn giữa các thành phần khác nhau trong xã hội gặp nhau được dễ dàng hơn. Cũng qua hoạt động này, Nhà nước có thể điều chỉnh chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy phát triển kinh tế. Hơn nữa, chính sách lãi suất huy dộng vốn hợp lý, hoạt động huy động vốn của các TCTD sẽ tăng khả năng kích thích tiết kiệm trong nhân dân. Thông qua hoạt động này chúng ta có thể đánh giá được trình độ phát huy nội lực của quốc gia, khai thác tiềm năng của mọi nguồn vốn đang còn tiềm ẩn thu gom được một lượng tiền tương đối lớn trong nền kinh tế, giảm dần lượng tiền mặt trong lưu thông. Từ đó, các TCTC có thể tập trung được các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
2. Pháp luật chiều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
Hiện nay, theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, các TCTD được huy động vốn thông qua bốn hình thức sau:
Thứ nhất, huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi:
Khoản 13 Điều 4 Luật các TCTD 2010 đưa ra định nghĩa về hoạt động này: “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”
Như vậy, trên phương diện pháp lý thì “quan hệ tiền gửi” là quan hệ kinh tế phát sinh giữa một bên là tổ chức, cá nhân gửi tiền với bên kia là tổ chức được phép nhận tiền gửi. Xét về bản chất thì quan hệ tiền gửi là một quan hệ hợp đồng vay nợ, bởi vì quan hệ này được thiết lập dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tự do thỏa thuận giữa các chủ thể; Có sự chuyển giao một lượng tiền nhất định từ người gửi tiền sang tổ chức nhận tiền gửi để tổ chức này quản lý, sử dụng. Sau đó, tổ chức nhận tiền gửi có nghĩa vụ phải hoàn trả cho người gửi tiền cả gốc và lãi (nếu có) khi đến hạn hoặc khi người gửi tiền có yêu cầu; Đồng thời, quan hệ gửi tiền phát sinh trên cơ sở có sự tín nhiệm giữa các bên. Trong các hình thức huy động vốn của TCTD, hình thức huy động vốn bằng nhận tiền gửi là hình thức chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn huy động của mỗi TCTD.
Các loại tiền gửi: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
Thứ hai, huy động vốn thông qua việc phát hành giấy tờ có giá
Theo Khoản 8, Điều 6, Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010; Khoản 1, Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định: ‘’ Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong đó TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định
Dựa trên các quy định của pháp luật hiện hàng thì giấy tờ có giá bao gồm:
– Căn cứ vào thời hạn phát hành:
+ Giấy tờ có giá ngắn hạn
+ Giấy tờ có giá dài hạn
– Căn cứ và chủ sở hữu giấy tờ có giá:
+ Giấy tờ có giá ghi danh
+Giấy tờ có giá vô danh
TCTD muốn được huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá phải thỏa mãn những điều kiện mà pháp luật quy định và được thống dốc Ngân hàng Nhà nước hoặc người được Thống đốc ủy quyền chấp thuận bằng văn bản. TCTD huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá phỉa có trách nhiệm công bố công khai về việc phát hành giấy tờ có giá theo quy định, phải thanh toán tiền gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ cho người sở hữu giấy tờ có giá và phải thực hiện chế độ báo cáo kết quả phát hành cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định.
Thứ ba, huy động vốn bằng việc vay vốn giữa các Tổ chức tín dụng
Ngoài việc huy động vốn của dân cư và của các tổ chức kinh tế- xã hội, Pháp luật còn cho phép TCTD được vay vốn của các TCTD khác ở trong nước và các TCTD nước ngoài. Quy định cụ thể trong hoạt động vay vốn giữa các TCTD được nói rõ trong Luật các TCTD 2010 đối với từng loại hình TCTD. Việc vay và cho vay vốn của các TCTD sẽ giúp cho các tổ chức tín dụng điều hòa, phân phối vốn để tăng cường khả năng thanh toán, đảm bảo an toàn, hiệu quả choa hoạt động của từng TCTD. Quan hệ vay vốn này được thực hiện dựa trên cơ sở hợp đồng tín dụng.
Về biện pháp bảo đảm, các bên thỏa thuận việc áp dụng hoặc không áp dụng hình thức bảo đảm cho khoản vay bao gồm đảm bảo bằng tài sản, bảo lãnh của một TCTD khác. Việc áp dụng hình thức bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành. Về phương thức cho vay các bên thỏa thuận áp dụng phương thức cho vay từng lần, theo hạn mức hoặc các phương thức khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ tư, huy động vốn thông qua vay vốn của Nhà nước.
Ngoài các hình thức huy động vốn đã nêu, các TCTD có thể vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động này vừa là một hình thức huy động vốn của TCTD vừa là một công cụ để Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ, tái cấp vốn.
II. TRÁCH NHIỆM, NGHĨA VỤ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN
1. Bảm đảm an toàn cho người gửi tiền
Bảo đảm an toàn cho người gửi tiền là sự bảo đảm an toàn về số tiền mà khách hàng gửi vào TCTD và những thông tin về chính khách hàng phải được bảo vệ và giữ bí mật.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định 117/2018/NĐ-CP thì Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm sau đây:
“2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm sau đây:
a) Cung cấp thông tin khách hàng trung thực, đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng và phạm vi thông tin được yêu cầu cung cấp;
b) Đảm bảo an toàn, bí mật thông tin khách hàng trong quá trình cung cấp, quản lý, sử dụng, lưu trữ thông tin khách hàng;
c) Giải quyết khiếu nại của khách hàng trong việc cung cấp thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật;
d) Tổ chức giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm quy định nội bộ về giữ bí mật, lưu trữ, cung cấp thông tin khách hàng;
đ) Chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật đối với trường hợp vi phạm quy định của Nghị định này, pháp luật có liên quan.”
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 35 BLDS 2015 và Điều 6 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 thì việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, tổ chức phải được cá nhân, tổ chức đồng ý. Ngoài ra, Điều 38 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam 2010 và Điều 14 Luật các tổ chức tín dụng 2010 đều có quy định về nghĩa vụ bảo vệ bí mật bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng. Về nguyên tắc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng, Nghị định 117/2018/NĐ-CP quy định về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng nêu rõ tại Điều 4: “Thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được giữ bí mật và chỉ được cung cấp theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nghị định này và pháp luật có liên quan”.
Như vậy, thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng phải được bảo mật tuyệt đối, trừ các trường hợp pháp luật quy định được phép cung cấp. Bảo mật thông tin của khách hàng là trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, các chi nhánh ngân hàng, các cơ quan, tổ chức này không được tự ý tiết lộ thông tin khách hàng ra bên ngoài hay thực hiện bất kì hành vi bất chính nào như việc trục lợi, sử dụng trái phép, mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hóa thông tin đó. Ngoài ra, sự an toàn còn được thể hiện ở tính hoàn trả cả gốc và lãi cho người gửi tiền khi hợp đồng hết hạn. Đây cũng là nghĩa vụ của TCTD khi thực hiện hợp đồng gửi tiền theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, Nghị định 117/2018/NĐ-CP cũng có quy định để khách hàng có thể bảo vệ mình trong trường hợp có vi phạm xảy ra, theo đó, khách hàng có quyền khiếu nại, khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật trong trường hợp cơ quan nhà nước, tổ chức khác, cá nhân, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp, sử dụng thông tin khách hàng không đúng quy định của pháp luật.
2. Công bố công khai các dịch vụ và chế độ ưu đãi đối với người gửi tiền
Quy định về vấn đề này, theo khoản 4 Điều 10 Luật các TCTD 2010 thì các TCTD phải có trách nhiệm “Thông báo công khai lãi suất tiền gửi, phí dịch vụ, các quyền, nghĩa vụ của khách hàng đối với từng loại sản phẩm, dịch vụ đang cung ứng”
Bản chất của việc TCTD nhận tiền gửi của người gửi tiền là hợp đồng vay tài sản. Như vậy, mọi điều khoản của hợp đồng phải được công khai. Trong quan hệ hợp đồng này, TCTD tự nắm bắt và chi phối được quyền lợi của mình nhưng người gửi tiền thì không thể thực hiện được điều đó. Quyền lợi của người gửi tiền chịu sự chi phối của TCTD. Vì thế, để thực hiện đúng quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, các TCTD phải công khai các loại dịch vụ và ưu đãi đối với người gửi tiền trong từng loại dịch vụ đó.
Mục đích của người gửi tiền vào TCTD rất đa dạng, có người muốn gửi để an toàn, hưởng lợi nhuận, có người muốn mở tài khoản để thanh toán,…Tuy nhiên, dịch vụ mà được nhiều người gửi tiền lựa chọn nhất đó là gửi tiết kiệm để hưởng lãi suất. Có thể khẳng định nhiều người ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là tầng lớp người già , tiền sinh hoạt của họ trông chờ vào tiền lãi mà họ nhận hàng tháng khi tham gia hoạt động gửi tiền vào các TCTD. Để đảm bảo quyền lợi và thỏa mãn nhu cầu này của người gửi tiền, các TCTD đưa ra các loại hình gửi tiết kiệm phong phú: không kì hạn, có kì hạn (kì hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng,..) Thông thường, kì hạn càng kéo dài thì mức lãi suất càng cao. Tùy vào mục đích và nhu cầu, người gửi tiền tự lựa chọn dịch vụ cho phù hợp. Để đảm bảo quyền được thông tin của người gửi tiền, tất cả các dịch vụ kể trên của TCTD được công khai tại thông qua nhiều hình thức (ghi trong hợp đồng mẫu của ngân hàng, niêm yết công khai tại quầy giao dịch của ngân hàng,…). Qua đó, người gửi tiền biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hợp đồng với TCTD.
3. Thực hiện đúng và đầy đủ các quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn và phòng tránh rủi ro trong quá trình hoạt động
Để đảm bảo khoản tiền gửi của khách hàng, TCTD phải thực hiện đúng các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình. Cụ thể trong Luật các Tổ chức tín dụng 2010 và Thông tư 13/2018/VBHN- NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, các TCTD phải đảm bảo các quy định về:
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: các TCTD phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “có” rủi ro của TCTD (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ)[2]. Phải thực hiện Báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu nêu trên, phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của TCTD và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất).
- Giới hạn tín dụng: các TCTD phải căn cứ vào quy định tại Thông tư trên, quy chế nội bộ về quản lý chất lượng tín dụng để xây dựng, ban hành quy định về các tiêu chí xác định một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan, chính sách tín dụng đối với khách hàng và các giới hạn tín dụng áp dụng đối với một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan.
- Tỷ lệ về khả năng chi trả, cuối mỗi ngày: TCTD phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ về khả năng chi trả cho ngày hôm sau như tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “có” thanh toán ngay và tổng nợ phải trả.
- Giới hạn góp vốn, mua cổ phần, mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD trong một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư đó trừ trường hợp góp vốn, mua cổ phần thành lập công ty trực thuộc theo quy định của pháp luật.
- Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động: TCTD chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều kiện trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả và các tỷ lệ bảo đảm an toàn khác quy định tại Thông tư này.
Bên cạnh đó, các TCTD còn phải xác lập mức dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro. Hoạt động ngân hàng là hoạt động luôn tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro cao. Vì vậy, việc quy định các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng là rất cần thiết nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của các TCTD và đảm bảo quyền lợi người gửi tiền.
4. Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi tiền, rút tiền theo yêu cầu
Một trong những yêu cầu tiên quyết đối với các TCTD trong hoạt động huy động vốn chính là việc tạo thuận lợi tối đa cho các khách hàng khi có nhu cầu gửi hay rút tiền. Bởi đa số người gửi tiền thực hiện gửi tiền vào các TCTD là nhằm mục đích cất trữ một khoản tiền nhàn rỗi và sinh lợi nhuận; khi có nhu cầu sử dụng cấp bách thì cần phải được sự hỗ trợ tích cực từ các TCTD, đây cũng là nghĩa vụ và trách nhiệm của họ.
Thông tư 48/2018/TT-NHNN quy định về tiền gửi tiết kiệm đã quy định chi tiết về Thủ tục gửi tiền tiết kiệm cũng như thủ tục chi trả tiền gửi tiết kiệm của TCTD đối với khách hàng lần lượt tại Điều 12 và Điều 18. Các quy định về trình tư, thủ tục gửi tiền, rút tiền rất chặt chẽ, đầy đủ đảm bảo tính an toàn cho cả TCTD cũng như khách hàng, tuy nhiên vẫn rất nhanh chóng, thuận tiện cho người gửi tiền.
Ví dụ quy định về thủ tục gửi tiền gửi tiết kiệm tại địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng được quy định tại Điều 12 của thông tư như sau:
Điều 12. Thủ tục gửi tiền gửi tiết kiệm tại địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng
1. Người gửi tiền phải trực tiếp đến địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng và xuất trình Giấy tờ xác minh thông tin của người gửi tiền; trường hợp gửi tiền gửi tiết kiệm chung, tất cả người gửi tiền phải trực tiếp xuất trình Giấy tờ xác minh thông tin của mình. Trường hợp gửi tiền gửi tiết kiệm thông qua người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo pháp luật phải xuất trình giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật, Giấy tờ xác minh thông tin của người đại diện theo pháp luật và Giấy tờ xác minh thông tin của người gửi tiền.
2. Người gửi tiền đăng ký chữ ký mẫu trong trường hợp thay đổi chữ ký mẫu hoặc chưa có chữ ký mẫu được lưu tại tổ chức tín dụng. Đối với người gửi tiền là người không viết được, người không đọc được, người không nhìn được: người gửi tiền thực hiện theo hướng dẫn của tổ chức tín dụng.
3. Tổ chức tín dụng đối chiếu, cập nhật các thông tin người gửi tiền theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
4. Người gửi tiền thực hiện thủ tục khác theo hướng dẫn của tổ chức tín dụng.
5. Sau khi hoàn thành các thủ tục quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này, tổ chức tín dụng thực hiện việc nhận tiền gửi tiết kiệm và giao Thẻ tiết kiệm cho người gửi tiền.
6. Đối với việc gửi tiền gửi tiết kiệm vào Thẻ tiết kiệm đã cấp:
a) Trường hợp gửi bằng tiền mặt: Người gửi tiền thực hiện các thủ tục quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này, xuất trình Thẻ tiết kiệm đã cấp. Tổ chức tín dụng nhận tiền gửi tiết kiệm, ghi nhận tiền gửi tiết kiệm vào Thẻ tiết kiệm đã cấp và giao Thẻ tiết kiệm cho người gửi tiền;
b) Trường hợp gửi từ tài khoản thanh toán của người gửi tiền: người gửi tiền thực hiện các thủ tục do tổ chức tín dụng hướng dẫn.
5. Mua bảo hiểm tiền gửi
Theo khoản 1 Điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) 2012: “ Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản”.
Bảo hiểm tiền gửi xuất hiện như một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, là cơ sở để củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với các TCTD. Hiện nay, BHTG là công cụ quan trọng nhất để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Người gửi tiền trong các TCTD đóng vai trò là người cho vay, khi các TCTD phá sản hoặc mất khả năng thanh toán các khoản tiền vay đó thì người gửi tiền phải chịu rủi ro. Như vậy, rủi ro của người gửi tiền về cơ bản nằm ngoài tầm kiểm soát của họ và họ không có khả năng tự bảo vệ mình. Vì thế, để đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền và đảm bảo cho an toàn cho nền tài chính quốc gia cần có một tổ chức đứng ra BHTG cho họ.
Đặc điểm lớn nhất của BHTG là người được thụ hưởng (người gửi tiền) không phải là người tham gia bảo hiểm mà là chính các TCTD. Chính vì thế, BHTG trở thành hình thức bắt buộc đối với cá TCTD có huy động vốn từ dân cư. TCTD là người đi vay tiền của người gửi tiền nhưng đồng thời cũng là chủ thể trực tiếp chi phối quyền lợi của người gửi tiền. Bởi vậy, việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiên vừa là quyền vừa là nghĩa vụ và trách nhiệm của TCTD. TCTD huy động vốn, việc bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền là cơ sở củng cố niềm tin, tạo thêm cơ hội kinh doanh.
6. Mở Tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước, duy trì số dư bắt buộc
Các TCTD phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và phải duy trì dự trữ bắt buộc theo quy định tại Luật NHNN, Luật các TCTD. Quy định này nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra thường xuyên và ổn định, an toàn. Từ đó, đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền trong hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng
Ngày 27/12/2019, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 30/2019/TT-NHNN quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước được xác định theo quy định tại Điều 5, duy trì theo quy định tại Điều 9 và hướng dẫn tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư này; Điều 6 quy định Tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc và có 3 trường hợp tổ chức tín dụng không thực hiện dự trữ bắt buộc theo Điều 3.
Điều 5. Xác định dự trữ bắt buộc
1. Dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc được Ngân hàng Nhà nước xác định cho từng tổ chức tín dụng bằng cách lấy tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định đối với tổ chức tín dụng theo từng loại tiền gửi trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc nhân với số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc tại tổ chức tín dụng trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc tương ứng theo từng loại tiền gửi.
Công thức tính dự trữ bắt buộc như sau:
DTBB = i (Tỷ lệ DTBBi x HĐi)
Trong đó:
DTBB: Số tiền phải dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng;
Tỷ lệ DTBBi: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định đối với tổ chức tín dụng tương ứng với tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc loại i áp dụng trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc;
HĐi: Số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc loại i tại tổ chức tín dụng trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc.
2. Số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc tại tổ chức tín dụng trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc được tính bằng cách cộng các số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc cuối mỗi ngày tại toàn hệ thống của tổ chức tín dụng (bao gồm trụ sở chính, chi nhánh ở trong nước và các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc ở trong nước của tổ chức tín dụng hoặc trụ sở của chi nhánh ngân hàng nước ngoài) trong kỳ chia cho tổng số ngày trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc.
Công thức tính số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc đối với từng loại tiền gửi như sau:
Số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc loại i (HĐi) | = | Tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc loại i cuối mỗi ngày trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc |
Số ngày trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc |
III. THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM, NGHĨA VỤ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
1. Những mặt đạt được
– Trách nhiệm của các tổ chức tín dụng (TCTD) nhận tiền gửi là đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền cũng như giữ vững được uy tín, thương hiệu. Để đảm bảo an toàn giao dịch, an toàn tiền gửi, cả TCTD và người gửi tiền đều phải tuân thủ các quy định pháp luật về tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn. Ngày 31/12/2018, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư số 48/2018/TT-NHNN quy định về tiền gửi tiết kiệm (Thông tư 48) và Thông tư 49/2018/TT-NHNN về tiền gửi có kỳ hạn (Thông tư 49) nhằm đảm bảo an toàn giao dịch cho cả TCTD và người gửi tiền, đồng thời đảm bảo lợi ích hợp pháp của pháp nhân, cá nhân có nhu cầu gửi tiền khi có nguồn tiền nhàn rỗi hoặc thu nhập hợp pháp.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật đã có sự thay đổi để hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền. Với việc ban hành các quy định về tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn, NHNN đã đề cao tính minh bạch, an toàn cho người gửi tiền.
Tại Thông tư 48, NHNN đưa ra các quy định cụ thể về đối tượng gửi tiết kiệm, hình thức tiền gửi tiết kiệm, địa điểm nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm…Theo đó, người gửi tiền phải trực tiếp đến địa điểm giao dịch của TCTD và xuất trình giấy tờ xác minh định danh của người gửi tiền/người đại diện theo pháp luật. Quy định này nhằm đảm bảo an toàn giao dịch cho cả TCTD và người gửi tiền. Trong khi đó, Thông tư 49 bảo đảm lợi ích hợp pháp của pháp nhân, cá nhân là người cư trú và người không cư trú muốn gửi tiền có kỳ hạn khi có nguồn tiền nhàn rỗi hoặc thu nhập hợp pháp. Đồng thời, quy định này cũng nhằm hạn chế các dòng vốn nóng, đầu cơ trên thị trường tiền tệ, người gửi tiền gửi có kỳ hạn chỉ được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của chính mình. Như đối với giao dịch gửi tiền khác, việc gửi, nhận tiền gửi có kỳ hạn có thể được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp hoặc tự mình thực hiện. Đây là những biện pháp nhằm đảm bảo an toàn tiền gửi cho người dân và TCTD.
– Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ngày càng được hoàn thiện hơn. Theo số liệu của BHTG Việt Nam (BHTGVN) từ năm 2000 đến nay đã chi trả đầy đủ, kịp thời cho 1622 người gửi tiền với tổng số tiền khoảng 21 tỷ đồng, đã củng cố niềm tin, giúp người dân yên tâm vào hoạt động của các TCTD. Trên cơ sở kế thừa những ưu điểm và khắc phục những thiếu sót của Nghị định 89/1999/NĐ-CP về BHTG, Luật BHTG 2012 đã ra đời với những quy định tiến bộ gồm nhiều quy phạm ghi nhận quyền của người gửi tiền, quy định cơ chế bảo vệ quyền của người gửi tiền, quy định cơ chế xử phạt đối với chủ thể vi phạm quyền của người gửi tiền,…
– Các quy định về phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng nhằm vào bảo vệ quyền lợi người gửi tiền có nhiều thành tựu đáng kể. Trong thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đưa ra các thông số để lường trước vấn đề rủi ro, trên cơ sở đó, tìm các giải pháp nhằm hạn chế và loại trừ rủi ro đối với hệ thống tín dụng. Với những nỗ lực này, bước đầu tạo điều kiện để hệ thống tín dụng phát triển lành mạnh, tránh sự sụp đổ tạo nền phản ứng dây chuyền cho hệ thống kinh tế quốc gia và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
2. Những hạn chế
Bên cạnh những mặt đạt được kể trên, do nhiều nguyên nhân khác nhau trách nhiệm của các TCTD trong hoạt động huy động vốn nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền còn nhiều bất cập và hạn chế.
Thứ nhất, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền ở nước ta chưa được thống nhất trong văn bản pháp luật riêng biết mà quy định trong Luật Dân sự, Luật các TCTD, Luật BHTG, Luật bảo vệ người tiêu dùng,..Các quy định nằm rải rác ở nhiều văn bản và nghị định khác nhau, điều này gay khó khăn cho cơ quan áp dụng pháp luật, đồng thời đối với cả các TCTD. Bởi vì khi cần sử dụng các quy phạm pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, họ phải “ nhặt” ở nhiều văn bản khác nhau, gây ra tình trạng thiếu hụt căn cứ pháp lý dẫn đến trách nhiệm của các TCTD đối với người gửi tiền cũng giảm sút.
Thứ hai, một số TCTD còn cố tình thực hiện sai hay thực hiện không đầy đủ quy định của pháp luật BHTG, nhất là trong công tác kiểm tra tại chỗ của tổ chức BHTG. Một sai phạm thường gặp nữa là trong việc nộp phí BHTG. Đó là tình trạng nộp thừa hay cố tình trốn tránh không nộp phí BHTG, nộp phí không đầy đủ, không đồng bộ.
Thứ ba, trong một số trường hợp, hợp đồng gửi tiền chưa rõ ràng. Bản chât của việc gửi tiền là hợp đồng vay tài sản, trong đó bên vay là các TCTD, bên cho vay là người gủi tiền Thực tế hiện nay, hoạt động này không có văn bản hợp đồng cụ thể. Ví dụ, hoạt động gửi tiền tiết kiệm, người gửi tiền đến quầy giao dịch của các TCTD điền các thông tin vào một tờ mẫu mà ngân hàng cung cấp, sau đó giao dịch viên điền các phần thông tin đó vào phần mềm quản lí và cuối cùng giao dịch viên đưa cho người gửi tiền một “sổ tiết kiệm” . Trên sổ tiết kiệm có ghi một số thông tin cơ bản như họ tên khách hàng, chứng minh thư nhân dân của khách hàng, số tiền gửi, kỳ hạn gửi và một số điều khoản thường là để bảo vệ quyền lợi của TCTD. Do trình độ hiểu biết còn thấp nên người gửi tiền thường ít quan tâm đến quyền lợi của mình khi gửi tiền, họ chấp nhận theo những điều khoản mà TCTD đưa ra, thậm chí có người còn không quan tâm đến những điều khoản đó.
Nếu xảy ra tranh chấp giữa TCTD và người gửi tiền thì hợp đồng là căn cứ đầu tiên và quan trọng nhất để giải quyết. Nhưng trong hợp đồng không ghi cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Việc giải quyết quyền lợi cho người gửi tiền phải căn cứ vào quy chế riêng của TCTD. Như vậy, người gửi tiền vốn ở thế bất lợi, càng khó đưa ra các chứng cứ bảo vệ quyền lợi của mình khi có tranh chấp với TCTD.
Thứ tư, thực tế kiến thức về pháp luật bảo vệ người gửi tiền của các nhân viên trong các TCTD còn nhiều hạn chế. Trong nhiều trường hợp, cán bộ ngân hàng vì tư lợi đã xâm phạm quyền lợi của người gửi tiền. Những hành vi vi phạm chủ yếu là chuyên viên ngân hàng thường làm giấy tờ chứng từ, không nhập số tiền gửi của khách hàng vào hệ thống quản lý để chiếm đoạt số tài sản đó. Hoặc có trường hợp có nhập hệ thống nhưng nhập ít hơn số tiền thực nhận được của người gửi tiền và chiếm đoạt số tiền chênh lệch.
Vừa qua, vụ chiếm đoạt hơn 400 tỉ đồng tại Oceanbank Hải Phòng đã làm chấn động tâm lý của người gửi tiền. Cụ thể Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an ngày 18-7 cho biết đã hoàn tất bản kết luận điều tra vụ án tham ô và lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Ocean Bank Chi nhánh Hải Phòng. Cơ quan điều tra đã đề nghị Viện KSND tối cao truy tố 4 bị can nguyên là cán bộ OceanBank gồm: Trần Thị Kim Chi (nguyên giám đốc chi nhánh); Nguyễn Thị Minh Huệ (nguyên trưởng phòng kế toán kho quỹ); Lê Vương Hoàng (nguyên giao dịch viên, kiểm soát viên) và Chu Văn Nha (nguyên thủ quỹ). Số tiền các bị can chiếm đoạt trong vụ án này là hơn 400 tỉ đồng.
Thủ đoạn của các bị can là để tiền ngoài hệ thống để chiếm đoạt, tự hạch toán sổ tiết kiệm dù không được khách hàng yêu cầu. Kết quả điều tra cho thấy tháng 3-2010, Trần Thị Kim Chi được bổ nhiệm làm phó giám đốc OceanBank chi nhánh Hải Phòng. Thời gian này, một số khách hàng có sẵn mối quan hệ với Chi và cán bộ ngân hàng nên thường liên hệ và đặt lịch trước mỗi lần đến giao dịch hoặc gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, các bị can không hạch toán số tiền gửi của khách hàng lên hệ thống FCC và phát hành sổ tiết kiệm ngoài hệ thống, sau đó tiêu hủy chứng từ mở sổ tiết kiệm mà khách hàng đã ký. Bằng thủ đoạn nêu trên, Trần Kim Chi đã in và phát hành 79 sổ tiết kiệm ngoài hệ thống cho 21 khách hàng, chiếm đoạt của khách hàng hơn 242 tỉ đồng và 2,7 triệu USD. Bên cạnh đó, do cần tiền để sử dụng cá nhân hoặc trả cho khách hàng có sổ tiết kiệm ngoài hệ thống đến rút tiền, Chi đã trực tiếp hoặc thông qua cấp dưới lấy tiền từ quỹ chi nhánh để sử dụng hoặc trả cho khách hàng. Để cân đối quỹ tiền mặt, Chi chỉ đạo nhân viên hạch toán, tất toán sổ tiết kiệm của khách hàng đang có trên hệ thống FCC mặc dù khách hàng không yêu cầu tất toán. Đến kỳ hạn tất toán sổ tiết kiệm, Chi chỉ đạo Lê Vương Hoàng chủ động liên hệ khách hàng, đặt lịch đón tiếp, vận động khách hàng tiếp tục gửi tiền tiết kiệm. Khi khách hàng đồng ý gửi tiếp, Hoàng hướng dẫn làm các thủ tục tất toán nộp lại sổ tiết kiệm cũ, ký khống (không điền nội dung ngày, tháng, năm) vào phiếu rút tiền. Sau đó, Hoàng mở sổ tiết kiệm mới nhưng không hạch toán vào hệ thống, đồng thời tiêu hủy các sổ tiết kiệm mới mà chỉ giữ lại các chứng từ tất toán sổ tiết kiệm cũ để hợp thức hóa cho việc tất toán khống trước đó.
IV. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NÂNG CAO NGHĨA VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TCTD TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN
Thứ nhất, pháp luật cần quy định rõ quyền của người gửi tiền để tăng phần trách nhiệm của các TCTD. Đây có lẽ là nội dung quan trọng nhất bởi phải xác định được quyền của người gửi tiền chúng ta mới xây dựng được cơ chế bảo vệ những quyền đó. Để phù hợp với thông lệ quốc tế, pháp luật nước ta cần ghi nhận người gửi tiền có những quyền sau: quyền được thỏa mãn những nhu cầu gắn với khoản tiền gửi; quyền được an toàn, quyền được cung cấp thông thi, quyền được lựa chọn, quyền được đại diện, quyền được khiếu nại, khởi kiện và bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền là cá nhân và tổ chức cần có những điểm riêng biệt. Người gửi tiền là cá nhân thường có mục đích gửi tiết kiệm và hưởng lãi suất, người gửi tiền là tổ chức thường có mục đích là mở tài khoản thanh toán. Vì thế, khi xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, bên cạnh những quy định chung, nhà làm luật cần xây dựng những quy định riêng cho phù hợp với đặc điểm của từng chủ thể.
Thứ ba, hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng gửi tiền. Như đã phân tích ở phần hạn chế, việc gửi tiền hiện nay chưa có hợp đồng nên trong nhiều trường hợp xảy ra tranh chấp, người gửi tiền khó khăn trong việc đưa ra cơ sở pháp lý chứng minh vi phạm của các TCTD. Lĩnh vực tài chính tiền tệ là một lĩnh vực nhạy cảm, sự sụp đổ của một tổ chức tài chính nào đó sẽ gây hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Để đảm bảo an toàn cho hệ thống huyết mạch của nền kinh tế quốc gia cần có nhiều giải pháp đồng bộ. Để góp phần bảo đảm sự an toàn này, quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng gửi tiền cần khắt khe, chặt chẽ.
Thứ tư, bên cạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý, TCTD nâng cao quy trình kiểm soát chặt chẽ rủi ro, nhất là rủi ro khách hàng bị lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, lộ thông tin cá nhân. Các rủi ro công nghệ nếu xảy ra rất dễ khiến khách hàng bị thiệt hại và có thể để lại hậu quả trên diện rộng. Xu hướng ngân hàng mở (Open Banking) hiện nay tạo điều kiện cho các bên thứ ba cung cấp nhiều loại dịch vụ mới cho khách hàng thông qua giao diện lập trình ứng dụng mở (open API) giúp tăng trải nghiệm của khách hàngTuy nhiên, cũng có nguy cơ xảy ra rủi ro mất thông tin, dữ liệu và tiền, nên các TCTD cần hết sức lưu tâm tăng cường an ninh mạng, an toàn thông tin, dữ liệu khách hàng và của bản thân mình.
Thứ năm, TCTD phải đảm bảo khả năng thanh khoản, trước hết là tuân thủ đảm bảo các tỷ lệ an toàn theo quy định của NHNN. Bên cạnh đó, điều hành cân đối vốn phù hợp với diễn biến thị trường nhằm đảm bảo an toàn thanh khoản cho hệ thống. Đồng thời, các TCTD phải tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật và của NHNN về đảm bảo an ninh, an toàn tiền gửi cho khách hàng. Ngoài ra, phía TCTD cần tăng cường công tác tuyên truyền, cung cấp thông tin, tư vấn cho khách hàng, tích cực tham gia giáo dục tài chính, giúp khách hàng hiểu rõ về sản phẩm – dịch vụ, đặc biệt là các sản phẩm mới.
Thứ sáu, các TCTD cần có chính sách và quy trình giải quyết sự vụ, sự việc một cách chuyên nghiệp, thấu đáo khi khách hàng gặp vấn đề liên quan đến tiền gửi nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho khách hàng cũng như giữ vững uy tín, thương hiệu của TCTD trên thị trường. Như thế mới đảm bảo đôi bên cùng có lợi và quan hệ hợp tác lâu dài, bền vững.
Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền là trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của các TCTD góp phần bảo vệ quyền con người và đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, ổn định phát triển kinh tế, xã hội cho đất nước. Với đề tài “Trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong hoạt động huy động vốn nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền – liên hệ thực tiễn”, luận văn đã phân tích những vấn đề lí luận, thực trạng pháp luật về hoạt động huy động vốn của TCTD, qua đó hướng hới trách nhiệm và nghĩa vụ của họ đối với người gửi tiền. Đồng thời qua việc phân tích đó, luận văn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi hiệu quả nhằm hướng đến lợi ích tuyệt đối của người gửi tiền trên thực tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Công an nhân dân
- Luật các TCTD 2010, sửa đổi bổ sung 2017
- Luật Ngân hàng Nhà nước 2010
- Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012
- Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010
- Nghị định 117/2018/NĐ-CP quy định về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
- Thông tư 04/2016/TT-NHNN
- Thông tư 01/2012/TT-NHNN
- Thông tư 49/2018/TT-NHNN
- Thông tư 13/2018/VBHN- NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
- Thông tư 48/2018/TT-NHNN quy định về tiền gửi tiết kiệm đã quy định chi tiết về Thủ tục gửi tiền tiết kiệm cũng như thủ tục chi trả tiền gửi tiết kiệm của TCTD đối với khách hàng
- Thông tư 30/2019/TT-NHNN quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
- TS. Hà Huy Tấn, Bảo hiểm tiền gửi và những vấn đề cần hoàn thiện để vảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền, Báo VIBOnline, đăng ngày 26/04/2014
- Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 – “Chiếc áo” vừa hơn, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam – Viet Nam banks asociation, cập nhật ngày 18/10/2013
- Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại ngân hàng theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đào Thị Sao
- Đảm bảo an toàn tiền gửi- bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam – Viet Nam banks asociation, cập nhật ngày 24/7/2020
- Pháp luật về huy động vốn của các TCTD Việt Nam
[1] Khỏan 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng.
[2] Điều 9. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
1. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu phản ánh mức đủ vốn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên cơ sở giá trị vốn tự có và mức độ rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thường xuyên duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này.
2. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng:
a) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng gồm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất.
b) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ: Từng tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ 9%.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ được xác định bằng công thức sau:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ (%) = | Vốn tự có riêng lẻ | x 100% |
Tổng tài sản Có rủi ro riêng lẻ |
Trong đó:
– Vốn tự có riêng lẻ được xác định theo quy định tại Phụ lục 1 Thông tư này.
– Tổng tài sản Có rủi ro riêng lẻ là tổng giá trị các tài sản Có nội bảng được xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản Có nội bảng tương ứng của cam kết ngoại bảng được xác định theo mức độ rủi ro theo quy định tại Phụ lục 2 Thông tư này.
c) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất: Tổ chức tín dụng có công ty con, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ theo quy định tại điểm b khoản này phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất 9%.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất được xác định bằng công thức sau:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất (%) = | Vốn tự có hợp nhất | x 100% |
Tổng tài sản Có rủi ro hợp nhất |
Trong đó:
– Vốn tự có hợp nhất được xác định theo quy định tại Phụ lục 1 Thông tư này.
– Tổng tài sản Có rủi ro hợp nhất được xác định theo quy định tại Phụ lục 2 Thông tư này.
3. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9%.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng công thức sau:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (%) = | Vốn tự có | x 100% |
Tổng tài sản Có rủi ro |
Trong đó:
– Vốn tự có được xác định theo quy định tại Phụ lục 1 Thông tư này.
– Tổng tài sản Có rủi ro là tổng giá trị các tài sản Có nội bảng được xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản Có nội bảng tương ứng của cam kết ngoại bảng được xác định theo mức độ rủi ro theo quy định tại Phụ lục 2 Thông tư này.